Phẫn Nộ Đại Tôn Giả

Phẫn Nộ Đại Tôn Giả

Thứ Ba, 29 tháng 9, 2015

Vũ trụ lập phương (1)

1. Trong các quan hệ xã hội, ta phải nói nghe ngửi nhìn nghĩ cử động, việc gì cũng tiêu tốn năng lượng, và ta biết rằng duy trì 6 trạng thái đó đều khá mệt nếu trong một thời gian dài. Ở tầng sâu hơn nguyên tử, các tương tác giữa người với người giống như các trường và các đường thông, các ống tải năng lượng và thông tin, kết nối và vận hóa. Các vận hóa này biểu hiện thông qua lục căn, do những chấp trước mà lục căn nhiễm nghiệp lực trở thành lục trần. Nếu phải duy trì sự kiểm soát các năng lượng, tương tác, ống truyền tải và thông tin, một người bình thường không có năng lực ấy, còn một người phi thường cũng rất mệt. Rất mệt, còn là bởi vẫn mang theo thân xác phàm, trong khi sự kết nối ở mức hạ nguyên tử sẽ can đới đến vạn vật, và xa rộng hơn nữa.

2. Trí tuệ liên đới hạ nguyên tử đó là trí huệ vi quan dựa trên phương lí Trụ-Trục-Điểm. Em phải xuất phát từ một mức vật chất hạ nguyên tử có mật độ cực lớn, từ đó sự diễn hóa ngũ hành-cửu cung-được khởi động. Ở mặt phẳng cơ sở, gọi là mặt phẳng C, 8 hướng và cửu cung được thiết lập. Sau đó là 2 phương còn lại, trên và dưới, xuyên qua tâm điểm của C, đó sẽ là một trục trụ, mới nhìn thì như đường thẳng, sau đó sẽ thấy là một ống trụ, nhìn kĩ hơn là một trụ xoắn ốc cửu sắc, đây là trụ N. Từ trụ-trục này sẽ thiết lập một tiết diện cũng có 8 hướng cửu cung, mặt phẳng này gọi là T và vuông góc với C, hai mặt cắt nhau vuông góc sao cho tạo ra một chữ thập. Hãy tưởng tượng như thể có hai tiết diện cửu cung C và T, vuông góc với nhau và cắt đôi nhau ra, đường giao của hai tiết diện này là đường phân đôi mỗi tiết diện cửu cung thành hai hình chữ nhật bằng nhau. 

3. Dễ dàng nhận ra sẽ có ít nhất hai mặt T được thiết lập thỏa mãn điều kiện trên. Giờ hãy gọi T(1) là mặt phẳng thiết lập vuông góc với C qua trục Bắc-Nam, T(2) là mặt phẳng thiết lập vuông góc với C qua trục  Đông-Tây. Khi thiết lập cùng lúc T(1) và T(2), thì dù muốn hay không sẽ có thêm trụ N: hãy nhớ rằng tính chất của trụ N là xuyên qua tâm điểm của một tiết diện cửu cung và vuông góc với tiết diện đó. Vì giờ em có 3 tiết diện phân biệt, nên chính xác là em có 3 trụ N. Đúng vậy, em đang tư duy về nội quan của một khối lập phương, tương tự khối rubik. 

4. Em bắt đầu nhận ra là sau khi phân chia Đông Tây Nam Bắc, thì từ hướng của người nhìn từ tâm ra ngoài, sẽ có bốn tùy chọn Nam Bắc Đông Tây, vậy em cần 4 khối lập phương biểu hiện cho 4 lựa chọn đó - thật ra vẫn chỉ là 1, nhưng vì tồn tại 1 lựa chọn mà 3 lựa chọn còn lại xuất hiện. Vì em đang có 3 tiết diện cửu cung cơ sở, nên em sẽ phải có 4*4*4=64 khối lập phương biểu diễn các biến hóa của khối lập phương.

5. 64 biến hóa này thật ra là 1, nhưng vì có 1 biểu hiện mà phải có thêm 63 biểu hiện. Vì chúng đồng nhất và đơn nguyên nên chúng lại tụ lại quanh một khối lập phương vô hướng (một khối vô hướng bản nguyên). Việc sắp xếp 64 biến hóa này là có quy tắc, và vì sự tồn tại của khối vô hướng bản nguyên cũng như tính đơn nguyên của 64 khối nên giờ thì mỗi khối đều có thể là khối bản nguyên, và em sẽ thấy từ mỗi khối lập phương sẽ có 63 khối nữa. Tức là mỗi 1 trong 64 giờ là 64, vậy em sẽ có 64*64 khối. Cứ lũy thừa bình phương các kết quả như vậy em sẽ có một vũ trụ.

6. Hãy nhớ rằng bất kể em nhân lên bao nhiêu, vũ trụ mà em có vẫn đứng yên, chưa vận động, còn hễ nó vận động, mỗi bộ phận dù đơn nhất với bộ phận khác đều tự phân chia đến không thể kiểm soát - trừ khi chúng truy hồi về khối lập phương vô hướng bản nguyên. Đó là vật chất bản nguyên, nguyên thủy ý thức, trí huệ bản nguyên.

7. Đó là trạng thái duy trì các quan hệ xã hội nhưng lại đồng thời duy trì mọi liên kết vũ trụ và vạn vật. Chính là trụ-trục-điểm, các ống, các đường dẫn, các thông tin, duyên, nghiệp, đức, chấp trước, an bài...

Đại sự

1. Hàng ngày và Hằng ngày làm những việc vặt bằng nhận thức từ Pháp và tư cách của một người tu, đó là Thánh nhân. Chỉ có Thánh nhân mới có thể thuận theo Đạo mà hành xử. Chỉ có dùng Đạo mà đo đếm mình và cải sửa mình, mới là hướng nội thật sự. Chỉ có Thần mới có thể Hướng nội như thế. Thánh Nhân và Thần, nghe đơn giản quá phải không? 

2. Hơn một năm qua ta đã chờ mong các ngươi sống cuộc sống thường nhật bằng tư cách của Thần và Thánh nhân. Có kẻ gần đến. Có kẻ vật lộn giữa được và mất. Có kẻ đập đầu vào bức tường nhân gian và giẫy giụa rồi gào thét những tiếng đạo đức giả mang âm thanh của quỷ dữ. Đồng hóa với tiêu chí của Thánh Nhân và Thần, sẽ có tâm tính và trí huệ của Thần, sẽ đắc lấy Thần Trí Thánh Tâm, sẽ gần với Mahavira và Sakya Muni. Và hơn thế, sẽ gần với Đạo.

3. Đó là nền tảng cho Đại sự của mỗi người. Dù việc vặt hàng ngày và hằng ngày đó là những ngọn núi còn cao hơn Hy Mã Lạp Sơn, cần người ta kiên định và mạnh mẽ đến mức chuyển hóa cả Trời nghiêng Đất lệch. 

4. Ai nắm lấy tay ta đã nắm rồi. Ai nhổ vào bụi dưới chân ta đã nhổ rồi. Thần và Ma đã phân định rồi.

5. Đại Sự

Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2015

6 of Pents

1. Thành công sau nhiều nỗ lực
2. Quyền thế, sự ảnh hưởng và tiếng tăm
3. Việc làm hoặc nghề nghiệp ổn định

6. Mộc tính ở Âm Thủy. Mộc ở Ma.


Trước cái chết được định sẵn, thì Tâm Trí đánh mất mình, để từ vật chất pháp lý hóa hiện thành vật chất bề mặt: giờ thì nó còn phải tự hiểu mình thông qua chính quan niệm hậu thiên và gần như không thể biết gì nhiều hơn thế. Tâm Trí, nói cách khác, đã mất trí và lạc lối, Mộc nguyên đã trở thành Âm Thủy. Tâm Trí chỉ giữ lại một đặc tính sau cùng: tự thấy mình là lớn lao và kiếm tìm sự lớn lao đó. Nhưng giờ thì nó phụ thuộc vào mắt, mũi, tai, miệng, thân, não. Cuộc sa đọa của Tâm Trí thành mắt mũi tai miệng thân não giờ trở nên kì lạ một cách lố bịch: Tâm muốn qua 6 cửa ấy cảm nhận khổ đau và hạnh phúc, Trí thì muốn qua 6 cửa ấy cảm nhận sự hoạt động và quyền lực. Sự lay động và cảm ngộ Thần biến thành cảm xúc dành cho con người, sự thấu biết những điều thiêng liêng và đồng hóa với điều thánh khiết biến thành những ý tưởng chinh phục và cai trị. Mộc nguyên từ sự sống, từ thành phẩm của từ bi, giờ đã biến thành sự độc ác, các cảm xúc, các ma niệm – giờ thì nó chỉ còn là Âm-Ma.

Trong một chu trình gần như là sau cuối, Mộc Nguyên bất lực và khổ đau nhìn Tâm Trí, nhưng những lời nói của nó vọng đến Tâm Trí lại biến thành những tiếng rên la và quát nạt. Đám con cháu bất hiếu bề tôi bất trung nổi điên lên và xem những lời dạy dỗ là những tiếng nguyền rủa, chúng từ chối những tiếng nói bên trong, chúng từ chối con đường đi vào sâu thẳm để tìm lại chính mình. Chúng tìm cách qua mắt mũi tai miệng thân não liên kết với mọi mắt mũi tai miệng thân não khác để lên án những gì từng là đạo đức, lương tâm, pháp lý, thiêng liêng – chúng không ngừng hả hê khi cùng nhau bôi nhọ và sỉ nhục những lời dạy của Mộc nguyên. Nhưng như vậy chưa đủ: chúng tạo ra những trò chơi trong đó kẻ thắng cuộc được thống trị những kẻ thua cuộc, trong đó mắt thống trị mắt, mũi thống trị mũi, tai thống trị tai, miệng thống trị miệng, thân thống trị thân, não thống trị não. Chúng được bến mê trao cho những “tri thức cặn bã” để dễ dàng đưa vào nhân gian, từ đây những kẻ thắng cuộc tận hưởng sự thắng cuộc trong nghệ thuật mà chúng cho là lý tưởng, trong đời sống mà chúng cho là thích đáng. Vì Thân lúc này chẳng qua là Xác, nên nó phụng quỳ trước nhau và quỷ quyệt dùng những màn kịch của mình kích động và thúc đẩy cuộc sa ngã của Tâm Trí – những kẻ đứng đầu mất lý trí có quyền sai bảo và định đoạt Tâm Trí của kẻ khác. Điều ấy đảm bảo sự bạo tàn và ngu dốt, dựa vào quyền lực, có thể thống đoạt và cai trị mọi Tâm Trí thoái hóa khác, cũng như bảo đảm rằng không có sự thức tỉnh nào xảy ra. Bởi thế quyền lực giả định sự phụ thuộc và sự thống trị, chính là phần phản ngược của an bài, vốn biểu hiện qua sự tuân phục pháp lý thiêng liêng và sự tự nguyện đồng hóa thấu biết tri thức của Thần Thánh.

Giờ thì, nghề nghiệp, vốn là những đặc tính Thần Thiêng ở tầng bề mặt sẽ là cơ sở của tu luyện và thấu ngộ Đạo lý, lại trở thành một khu vực mới của quyền lực: ở đây sự tồn tại của Thân được quy định bằng Tiền, và kẻ nắm quyền phân phối nhân sự và lương bổng nắm một quyền lực gần như vô lý, nhưng lại được hợp thức. Sự phân chia thành quả lao động ban đầu vốn dựa trên nỗ lực và cống hiến, nay dựa trên sự quỵ lụy quyền lực, sự gian dối và nhục nhã. Nghề nghiệp thật sự đã giúp Tiền biến thành một thế lực đầy quyền năng, và từ đó quyền lực và tiền bạc biến thành một cặp tình nhân hung dữ. Cặp tình nhân này thông qua công việc, thông qua đời sống xã hội và các quan niệm hậu thiên đục vào tai mắt mũi miệng thân não của từng cá nhân, để cai trị dứt khoát mọi Tâm Trí tử tế còn sót lại, để lăng nhục nó và đưa nó ra trước những con mắt, đôi tai, cái miệng, lỗ mũi, nhục thân và não trần, để hạ nhục điều thánh sạch và tuyên dương nhân gian. Đúng vậy, quyền lực và tiền bạc, con hổ dữ và loài rắn độc đó đang tuyên dương Mẹ của chúng, Bến Mê.

Cân nhắc

1. Mấy ngày nay anh cứ nghĩ về câu hỏi của em, rằng tại sao dường như anh vô thần và tuyệt vọng lại vẫn tin và quý trọng pháp lý hay những điều cao đẹp đến vậy - những điều mà có vẻ vì thế chúng ta đều đau khổ và bị dày vò. 

2. Xuất phát điểm của anh rất đơn giản: trước hết anh không thể sống giống những kẻ dốt nát, bất trí, ác độc, thích sỉ nhục người khác và hay đổ lỗi. Điều này có gì sai không? Một người tử tế có đạo đức chừng mực đều sẽ không muốn mình như vậy. Đúng chứ?

3. Hai nữa là tri thức của anh giúp anh biết chắc rằng thân thể con người tương ứng với kết cấu vũ trụ, và vận hành theo các loại lực vũ trụ trong tầng nguyên tử cũng như các quy luật tự nhiên ở mức tế bào. Nghĩa là nếu người ta sống đúng với nguyên lý của vũ trụ và tự nhiên, người ta là tốt. Đúng chứ?

4. Sau đó việc anh làm là đi tìm một nguyên lý vũ trụ và tự nhiên tốt nhất có thể biết được trong nhân gian. Và anh rất thực dụng: nếu có nguyên lý đúng hơn, anh sẽ theo nguyên lý đúng hơn. Rõ chứ?

5. Nếu nguyên lý đúng hơn dẫn đến sự giải thích và lý thuyết về Thần, anh cũng sẽ tin, vì nó đúng hơn.

Những gì anh nói đều cho thấy anh phấn đấu để vươn lên trong trí tuệ và đức hạnh là vì anh không thấy tiền bạc và danh vọng nhân gian là mục đích, càng không lấy việc cầu xin tình cảm của con người nhân gian làm hệ trọng.

Anh mong rằng dù em chẳng tin gì nữa, thì qua những điều anh nói em sẽ thấy: đó là vì em chẳng cần sống theo vũ trụ hay các nguyên lý tự nhiên cao quý gì cả. Vì em cần tình, cần tiền, cần lợi, cần dục vọng. Đó là sự thật, và sự thật đơn giản vậy đấy. Còn trên con đường đi đến vũ trụ và trí huệ, cần vứt bỏ các chấp trước nào, anh sẽ thẳng tay ném nó đi. Đó là vì anh rất thực dụng, không thích mặc cả. 

Thật ra, anh gần như chắc chắn rằng nếu em không thể gần với vũ trụ, là vì em thích tiền và cần tiền. Dù có bao nhiêu nỗi đau khổ khác mà em viện ra, hãy nhớ: tất cả là vì máu tham tiền trong em. Tại sao, thì anh đã nói rõ rồi. 

Thứ Ba, 22 tháng 9, 2015

12 cánh cửa

1. Những cánh cửa, những cánh cửa huyền nhiệm, em có cảm thấy điều đó không? Khi em bước vào một căn nhà, một không gian, một nơi chốn mênh mông nào đó, luôn là những cánh cửa, vô hình và hữu hình. Sự huyền nhiệm chỉ dành cho người thật sự cúi mình trước Thần Thánh, vì từ giờ phút ấy trong kẻ ấy những cánh cửa cũng mở ra. Những cánh cửa không phải để phân cách mà để kết nối. Mỗi sự kết nối cũng mang hình dạng một cánh cửa, mỗi phép màu là một cánh cửa, mỗi lời nguyền là một cánh cửa, mỗi con đường là một cánh cửa, mỗi đức tin là một cánh cửa, mỗi sự ngờ vực là một cánh cửa. Em có cảm nhận được sự thay đổi tinh tế tuyệt đối khi tay em đảy một cánh cửa trong đời thật và bước vào một không gian dẫu chật hẹp nhưng mênh mông? Cũng như mỗi từ thốt ra đều là một cánh cửa, mỗi ý niệm là một cánh cửa, mỗi hoài bão là một cánh cửa, sau đó là vô tận vô tận những ánh sáng, bóng đêm, hạnh phúc, đau khổ, hi vọng, tuyệt vọng,...

2. Anh đến một lâu đài, trước mặt anh là 12 cánh cửa, 12 màu sắc. Đứng trông mỗi cánh cửa là một vị Thần - 12 cánh cửa lúc thì trên một tuyến, lúc thì trên một cung tròn, lúc bao bọc những hình vuông. 12 cánh cửa trông như 12 con mắt mở ra từ một bức tường đá rất cao, mà anh ngước mắt mãi lên bỗng thấy những mặt trời chói lọi, và trên nữa là những dòng sông, trên nữa là thiên giới mênh mông, trên nữa là các vị Thần, cho đến rất cao là ngay nơi anh đứng: 12 cánh cửa, 12 con mắt, 12 đường dẫn, 12 điện thờ. Đứng trước 12 cánh cửa chỉ có thể là sự thanh sạch, chỉ có sự thanh sạch đưa anh đi qua 12 cánh cửa này và ở trong kia - không phải chân anh, không phải tay, mắt, mũi, miệng, thân, càng không phải dục vọng, oán hận, nghi ngờ, cũng không phải những lời khẩn cầu vì khổ đau, không phải sự nhơ bẩn vì bị xâm nhiễm. Chỉ có sự thánh sạch, chỉ có điều tinh hoa nhất là một dòng chảy xuyên qua 12 cánh cửa kia, và phải cùng lúc đi qua 12 cánh cửa để đến cùng một nơi, và đến được nơi ấy từ ngay nơi anh đang đứng. 

3. Anh thấy những ánh kim quang rạng rỡ, sau đó là thanh quang dịu ngọt, rồi những chấm hồng quang lung linh, những quả cầu lấp lánh, một không gian bao la sự sống xanh rực rồi tím vô tận, rồi anh hóa thành những hào quang đó, và theo những hào quang đó đã thấy mình ở một nơi tất thảy đều là mặt trời, không còn cảm giác gì nữa, vô tận, mênh mông, tràn ngập, tỏa rạng. Cứ thế cho đến khi anh thấy mình hóa thành một cánh cửa, qua anh là những ánh sáng vô cùng đến từ một nơi vô cùng, trải dài trước mặt là những thềm đá dâm dấp nước ánh lên những tia sáng mờ yếu nhưng sâu thẳm. Một cảm giác dịu mát xuyên thẳng như mũi tên bay qua hàng tỉ thiên thể nằm trên tay anh và trong anh, cho anh thấy những bình minh tỏa sáng ở mãi phía những vị Thần đang chung tay mở ra những cánh cửa nữa, trong anh và quanh anh, cho đến những hành lang tít tắp ngập trong thanh âm-ngập trong thanh âm. Đó không phải là nhạc, không phải là tiếng, đó là những không gian đang vang vọng, là những lời cầu nguyện chân thành và dâng hiến, là những ánh sáng, những cánh cửa...

4. Rồi anh thấy mình trong một căn phòng, trước mặt là những vật dụng đã theo anh rất lâu, có thể chỉ một giây cũng là rất lâu, vì chiều sâu của sinh mệnh có một thời không vô cùng. Tất cả đều bừng sáng nhưng lặng lẽ, như là chỉ là nó của hàng vạn năm trước nhưng cũng là nó của hàng vạn năm sau. Căn phòng ấy bỗng mở ra 6 cánh cửa, và từ đó là 12 cánh cửa, ngập tràn phép màu và ân điển. Từ trong đó qua những cánh cửa anh thấy những kẻ phụng quỳ, tâm hồn đều vật lộn để mở những cánh cửa, nhưng còn chưa kịp mở thêm đã đóng lại, họ lăn lộn và khổ đau, họ gào thét: họ lại mở những cánh cửa sẽ làm những cánh cửa khác đóng sập lại. Anh thấy tiếng khô khốc vọng vào, tai anh cũng mở 12 cánh cửa, nhờ đó anh có thể quán mọi âm. Mắt anh mở 12 cánh cửa, nhờ đó anh có thể quán sát vạn vật. Rồi miệng, mũi, trán, thân, ý, tâm... đều mở 12 cánh cửa, trong mỗi cánh cửa lại có 12 cánh cửa, cứ thế hàng tỷ tỷ cánh cửa vô lượng vô biên. Từ tất cả một nguồn sáng ấm áp nâng đỡ anh lên, anh thấy mình ở trong một bánh xe lớn lao nhất, trên tay vị Phật của tất thảy chư Phật và chư Thần.

5. Rồi 12 cánh cửa nữa mở ra. Anh gặp lại các Cha. Và từ đó họ ở trong anh và đi qua anh bằng 12 cánh cửa đó. Để ánh sáng của họ chiếu tỏa đến những linh hồn đang chờ đợi, anh đã dặn những linh hồn ấy:

hãy để thời gian của các người trước 12 cánh cửa của 6
hãy để tai mắt mũi miệng thân ý của các trước 12 cánh cửa của 6
hãy tẩy sạch bụi trần để mở ra 12 cánh cửa của 6
hãy hòa vào ánh sáng của 12 cánh cửa của 6
các người sẽ có 12 của 6
nhưng sẽ chỉ có 6 cho đến khi có 12
nhưng sẽ đóng mất tất cả khi thời gian, tai mắt mũi miệng thân ý đều nhơ bẩn
khi bụi trần che mờ ánh sáng của 12 của 6 trong các người
Ta sẽ đóng cánh cửa đó trong ngươi
vĩnh viễn


Con người phổ quát

1. Trước Plato có lẽ đã có, nhưng chỉ từ Plato con người thế gian mới thật sự biết về "sự tồn tại phổ quát". Có lẽ em nghe sẽ rất quen: con người phổ quát, đạo đức phổ quát, tôn giáo phổ quát. Ý nghĩa của nó là thế này: có một cái gì chung là nguyên mẫu cho tất cả - Plato đặt tên nó là "ý niệm", em có thể hiểu ông đang nói: khởi nguyên, vì vào thời ông, ý-niệm là khởi-nguyên. Ý-niệm theo cách hiểu của ông không hề giống ý-niệm của con người bình thường: với con người bình thường, ý niệm là suy tưởng và nghĩ ngợi. Với Plato, ý-niệm là nguyên mẫu tối hảo - nói cách khác, Plato đánh cắp một Thần Thông của Thượng Đế xuống cho con người. Ông đã mừng rỡ về điều này, thậm chí còn viết hẳn một kiệt tác lớn nhất thế giới cổ đại, và kể cả đến nay, cuốn Republic, trong đó những cộng đồng Thần Thánh được ông đánh tráo bằng một cộng đồng thành bang, và từ đó một truyền thống Nhà nước cùng những suy tư về Nhà nước, cộng đồng, thể chế bùng lên ở châu Âu qua hơn hai thiên niên kỷ, vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại.

2. Nếu quả có một cái gì đó lý tưởng và phổ quát mang tính nguyên mẫu và tốt nhất (kiểu như ý-niệm về cái bánh có trước cái bánh, và mọi cái bánh được làm ra chỉ là mô phỏng), thì phải có con-người phổ quát, con người nguyên mẫu và toàn hảo. Và nếu đúng thế (em có để ý thấy cả em cũng hay nghĩ như thế không? kiểu như con người là, xã hội là, cuộc đời là, người tốt là..- toàn những nguyên mẫu phổ quát), thì nghĩa là nhân gian này là có-thể-dạy-bảo được để tước bỏ cái không phổ quát và quay về cái phổ quát. Plato đã quả thật nghĩ thế, ông mở trường đại học tư đầu tiên của Châu Âu, nơi người ta chỉ trao đổi những chuyện cao quý nhất như toán học, thần học, linh hồn... Ông còn định đào tạo ra các đế vương-triết gia và để các đế vương-triết gia này thống trị nhân gian lẫn linh hồn con người. Nghe quen không? Nhưng ở châu Á, Khổng Tử còn đi xa hơn thế: ông thừa nhận Thiên Tính của con người là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín - thế là con người phổ quát có đủ các đức tính ấy, việc còn lại là giáo hóa (bằng cả dạy học và bằng cả việc làm gương cho người khác). Ông còn nghĩ thế này: nhà vua cần được giáo hóa, dưới đến các quan, thứ dân cũng cần, và nếu cả thiên hạ đều được giáo hóa thì xã hội sẽ quay về thời cực thịnh, thời Đại-Đồng. Lão Tử còn cực đoan hơn nữa: ông bảo rằng Thầy là Đạo, cứ theo Đạo thôi, chẳng phải giáo hóa ai cả - nghĩa là vạn vật đều đang được đạo Giáo Hóa, bỏ đi tư niệm vị kỉ sẽ thấy chỗ giáo hóa rất lớn ấy.

3. Phật Thích Ca có lẽ đã nghĩ theo một cách rất khác. Ông cho rằng con người về căn bản là vô minh và đọa trong các chủng chấp trước sa đọa - rằng ngay cả con người tiên thiên chẳng qua cũng vô minh thôi. Không thể giáo hóa con người nhân gian được, chỉ có thể giáo hóa con người muốn từ-bỏ nhân gian - người tu hành. Vì thế ông không mấy khi thuyết cho người nhân gian nghe, ông thuyết cho các đế vương, các thánh trí, các la hán, các bồ tát, các thần linh các cõi... 500 năm sau Thích Ca, Jesus ở vùng Trung Đông tin rằng con người quả thật mê mờ và vô minh, nhưng sẽ được cứu rỗi bằng ân điển của Chúa, và sự cảm ngộ một vị Thần bản nguyên sẽ là sự giáo hóa lớn nhất. Không hề ngẫu nhiên, khi những người tu của Bái Hỏa Giáo và sau này là Phật A Di Đà cũng giáo hóa theo cách đó. Nhưng thật khác biệt: với Thích Ca, sự giáo hóa là để viên mãn. Với Jesus, chỉ là để được cứu chuộc. 

4. Có thể đúng là nhân gian vô minh: theo nghĩa đúng nhất, họ không biết gì về cái phổ quát. Họ cũng nói về con người, tôn giáo, đạo lý, nhà nước, xã hội... nhưng họ chỉ nói về cái phổ-biến. Với họ cái phổ-biến là cái phổ-quát (thì với họ, Thần là do người tạo ra). Ai cũng kiêu ngạo - vậy kiêu ngạo cũng tốt. Ai cũng khôn lỏi tham lam - vậy khôn lỏi tham lam là tốt. Ai cũng ích kỉ - vậy ích kỉ cũng tốt... Ai cũng... Cái thế giới ai-cũng, ai khôn thì sống ai dại thì chết của họ như thế đấy. Có điều, thật kì lạ, sau mọi điều, anh tin vào những gì phổ quát - anh tin rằng làm theo đạo đức, lương tâm, điều thánh sạch, tin vào những điều cao quý và lớn lao thì con người sẽ gần với cái phổ quát. Anh tin rằng bằng việc nhận chân ra cái phổ biến, chúng ta sẽ không đọa vào một nhân gian ai-cũng nữa.

5. Còn nếu không có con người phổ quát? Thì đừng hi vọng gì nữa. Ác cứ Ác. Thiện cứ Thiện. Được cứ Được. Mất cứ Mất. Nhưng em ơi, có một điều phổ quát chí cao, một điều thánh sạch hơn hết thảy, mát lành hơn tất thảy, ân huệ hơn tất cả, giáo hóa mọi điều nhỏ nhặt đến bao quát, chỉnh sửa cải hóa mọi thứ sai lệch và lạc lối, trừ bỏ mọi thứ tà ác lộn xộn - điều ấy...

Em đã biết chưa? 

Hỡi con người sống giữa những phổ quát và phổ biến?

Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2015

Gần và Xa

1. Anh đã từng gửi em một tài liệu, trong đó chỉ ra rằng mọi sự tiếp xúc của chúng ta thực chất đều là một tương tác điện từ. Đơn giản: mỗi nguyên tử gồm hạt nhân và các electron, các eletron này gần như bất tử (so với con người) và vô hình (đến nay thì quỹ đạo của nó vẫn còn là một bí mật, xét đến cùng thì con người chẳng hiểu gì thế giới mình sống cả) - vấn đề là các electron này tạo nên kích thước của nguyên tử, trong khi hạt nhân của nguyên tử thì bé đến nỗi nếu nguyên tử là nhà em, thì hạt nhân chỉ to bằng hạt bụi, có thể bé hơn. Các electron này có tốc độ mà nếu em di chuyển cùng nó em có thể cũng sẽ bất tử so với con người. Nhưng điều anh muốn nói ở đây là: sự gắn kết giữa hai nguyên tử và giữa các nguyên tử thành chuỗi phân tử hoặc thậm chí thành một sự vật chỉ là một mối tương tác-liên kết điện từ. Thật thế, khi em ôm người yêu em thật chặt, đơn giản là em và người đó chưa bao giờ chạm vào nhau, chỉ có các xung điện và lực điện từ.

2. Nghĩa là, xét đến cùng mọi sự tương tác đều vô-tình, mọi sự chấm dứt liên kết đều tuyệt-tình. Như thế, mọi tương tác ở nhân gian này đều ít-nhất (trong trường hợp em vô-thần thì vẫn đúng thế), là tương tác ở cấp độ nguyên tử, thậm chí nhỏ hơn là electron, nghĩa là ở cấp độ hạt. Em chắc bắt đầu hiểu rằng nếu vậy (và đúng vậy), thì bản chất của các tương tác hạt này lại do hạt nhỏ hơn quyết định. Cứ nhỏ mãi, cho đến tối-cực-vi-quan. Em chắc lờ mờ hiểu ra rằng mọi sự đặt định-an bài đều xuất phát từ những tầng vi quan mà bằng xác thịt, dục vọng, trí thông minh ngu dốt và tham vọng, con người chẳng bao giờ động đến nổi. Em cũng có thể bắt đầu cho rằng, có phải ý niệm của chúng ta cũng vậy: hễ chúng ta nghĩ, đó là một tương tác, từ rất vi quan cho đến bề mặt?

3. Gần đúng. Nhưng anh đã từng nói rồi, các lớp năng lượng tương tác bị các linh thể ở không gian khác kiểm soát - đó là các ether, những giám thần quản các tương tác và ngăn chặn các xung đột nội một không gian và giữa các không gian. Do đó ý niệm của em không thể làm hại hoặc giúp ai được, dù vẫn là tương tác và vẫn được các giám thần Ether ghi nhận (em chắc bắt đầu sợ được rồi đấy, rõ ràng nghiệp dù ở trong tư tưởng hay ngoài Thân đều bị ghi nhận và phải-trả). Nghĩa là những ý niệm của em bị cô lập và chỉ còn là những rối loạn điện từ trong trường của em thôi, đúng là chỉ thế thôi đó. Giờ thì em hãy tưởng tượng một chuyện hơi nhân gian: để xuyên phá giữa các lớp giám thần Ether, em phải có một loại giấy phép, một loại hợp đồng, một loại đặc-quyền được ghi nhận. Em có thể gọi giấy phép đó là công, và nội dung của công là pháp-lí. Do đó việc trộn lẫn pháp-lí cũng rất nguy hiểm: như em trình diện một tờ giấy thông hành giả vậy, các giám thần Ether sẽ bắt ngay em lại, và sự trừng phạt là lớn đấy. Nhưng còn nữa, khi em cố gắng ngăn người ta làm giấy phép đó (ngăn cản người ta đi theo công-pháp), em cũng được các giám thần ghi tội, và tội này lớn đến mức có thể em vĩnh viễn không còn có nguyên tử nào nữa để mà cấu thành.

4. Các giám thần này biết rằng nhân gian chỉ là một môi trường tùy nghi diễn hóa của sinh mệnh theo duyên-nghiệp, nên họ không ngăn cản những vị quản các công-pháp an bài cho một người có thể vượt thoát tam giới, đó là lí do họ cấp phép thông hành ngay khi người ta đủ khả năng liên kết với công-pháp. Thế nghĩa là, nếu em đang làm chuyện của công-pháp, thì tất thảy đều đang trong an bài và có sự giám sát của Ether. Đó là lí do các Thánh tiên khởi của các phái tu, dĩ nhiên với Ngộ tính cực lớn, luôn thấy các dấu-hiệu, các lí-do, sự dẫn-đường của Thần, một sự hiện hữu siêu-vật lí và xuyên thời-không. Đến đây thì có những điều anh không tiện nói ra, vì em phải tự Ngộ.

5. Anh chỉ nói nốt về chuyện này một chút: qua những hình thức giải trí, như khi em xem một clip ca nhạc, hoặc phim, đều có thể có những dấu-hiệu, có sự hiện hữu của Thần sau đó. Đừng vội mỉm cười, hãy nhớ rằng nếu không có sự liền lạc của công-pháp đằng sau, thì thứ em nắm bắt được rất có thể chỉ là một thứ rác bẩn của nhân gian. Hãy nhớ lại điều anh nói, tất thảy đều là tương tác, và bản chất là vi quan: các linh thần công-pháp có thể qua những phản ứng điện từ của sóng và hạt để tác động đến các yếu huyệt khắp thân thể em, toàn bộ trường không gian của em, tác động thẳng vào não và nội tạng của em (đừng ngạc nhiên, vì dù chỉ là sóng wi-fi thôi đã tràn ngập không gian rồi). Vì thế khi họ gửi cho em một dấu hiệu, hãy trân trọng nó. 

6. Còn khi nào em thích thú tự tìm những bài hát mình thích và xem những bộ phim đủ loại, tự mãn với các ý nghĩa của phim ảnh ca nhạc mà em tự nghĩ ra và tự đắc, hoặc buồn vui với phim ảnh - khi đó em chẳng có gì cả, ngoài sự tham lam, ích kỉ, bạc nhược và nổi loạn. Nhân tiện, anh gặp những loại đó rất nhiều. Nếu em không muốn trở thành đám rất-nhiều, em nhớ nâng cao tâm tính, tăng cường trí huệ, và nhất là hướng nội khi nghe anh nói những điều này. 

Vì các Ether đang nhìn em đấy.

Kết thúc của Kết thúc

1. Anh gặp một vị Thần kì lạ. Tên vị ấy là Kết thúc của Kết thúc. Vị ấy nhìn anh cười. Đoạn bảo anh: Có ba sự kết thúc. Một là khi ngươi không có gì để làm. Hai là khi ngươi không làm gì. Ba là, khi không làm một việc không để làm gì. 

2. Anh không chắc mình hiểu ý ông ta, theo kinh nghiệm của anh thì anh chỉ cúi đầu và mỉm cười. Vị ấy lại nói, hai kẻ đầu là một, đó là kẻ tự bỏ đi nguyện, kẻ từ chối Thần Mệnh, kẻ hữu vi. Kẻ thứ ba là kẻ vô vi, với kẻ ấy đã kết thúc, từ kẻ ấy có thể bắt đầu mọi việc.

3. Anh vẫn nhìn ông ta như vậy, như thể anh thật tối tăm, anh hơi xấu hổ về điều đó. Kẻ từ bỏ nguyện để biến thành hữu vi, kẻ đó với ta đã kết thúc, ta chính là không quản nó. Kẻ đã đến chỗ vô vi, thì tự quản mình, đó cũng là kết thúc. Kẻ đầu phải ở trong kết thúc của kết thúc. Kẻ thứ hai ở trong kết thúc của vạn-sinh.

4. Ta ở đây là để kết thúc những kẻ đáng bị kết thúc.

5. Anh thấy vị ấy hóa thành một nguồn sáng. Anh nhớ đến sáng nay đã nói với chị, bảo chị rằng: Trong em có một chút tình, thương kẻ vì tình thương mà ngã. Trong em còn một chút tàn nhẫn, khinh bỉ kẻ vì tham lam mà ngã. Trong em đa phần là kiên định: Không vì tình thương lẫn tàn nhẫn mà gặp kẻ đã chết rồi. 

Sáng nay. Thật ra, là Tối nay.

Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2015

Tham lam, Ích kỷ, Bạc nhược và Nổi loạn

Hôm nay anh có nói chuyện với vài người bạn. Về Thân. Chẳng có gì mới, nhân có người hỏi anh, sao ông lại tin vào Phật đến vậy, sao phải tin vào phẩm giá, sao phải làm điều tốt, sao phải nghĩ tốt sống tốt... nên anh ghi lại một chút.

1. Con người chia làm ba phần: Đầu, Thân, Chân. 

Trên đầu có Não, Não rất tham lam, nó chỉ cần glucose và chiếm đến 30% năng lượng cơ thể. Nó hút máu và qua đó là glucose nhiều đến nỗi thân thể nhiều khi bải hoải muốn đổ không hiểu do đâu. Đôi lúc Não quá tham, làm người ta huyết áp cao. Đôi lúc quá thấp, làm người ta bị huyết áp thấp. Tham quá, nó thừa máu và năng lượng, phởn phơ ám ảnh và nghĩ ra những chuyện kì cục nghi ngờ. Đuối quá, thiếu máu, nó làm người ta hay quên và dễ oán hận. Để quản lý thằng tham lam này, Ngũ Tạng phối với nhau tạo ra tai, mắt, mũi, miệng và Trán. Còn để đục khoét và vơ vét Glucose (giờ cứ gọi là Tiền đi), Não phát triển một hệ thần kinh thực vật tỏa khắp thân thể (Khốn nạn, cái bọn hám tiền tưởng mình thông minh, kiểm soát người khác).

Trong thân có một thứ đặc biệt, là Tim và Máu. Tim cực kì ích kỉ, nó không quan tâm đến Thân, nó sai Máu đi khắp các phủ tạng lùng bắt các chất, và nuôi ngũ tạng như thể người ta chăn gà chăn lợn, để đến lúc bòn rút - bòn rút không hết, nó tạo ra cơ-da làm nhà cho nó, nó còn bắt cơ và da vận động nhiều một chút cho nó được khỏe. Máu lấy cái tốt và thải cái xấu, một phần bợ đỡ và thương gia đình, nó đưa tiền cho Não và an ủi Não rằng hãy cố quản lý cho tốt bọn Ngũ Tạng, đặng cống nạp thêm cho nó. Thứ ích kỉ.

Chân thì quá đặc biệt, anh thề. Chân là khu vực các áp lực của Tim được điều hòa, nó còn là thằng cần mẫn đẽo gọt và dâng hiến từ những thứ Thân đẩy xuống để tạo ra Xương. Vậy là nó phục vụ Tim, phục vụ Thân, và còn phục vụ Não. Ngoan lắm Chân, hãy cố lên, những con lừa tưởng mình giỏi nhưng không bao giờ minh bạch. Những kẻ âu sầu say ngủ, nặng nề và lúc nào cũng gánh chịu, mất hết ý chí muốn cải hóa và luôn than phiền trước mọi đau đớn. Đồ bạc nhược.

Trên Thân còn một thứ nữa đặc biệt mà anh kể sau: Đó là Tay. Tay là nơi phát tán năng lượng, từ đây Thân giao tiếp với bên ngoài (chú ý: Thân rất thích giao tiếp với bên ngoài, vô tình tai mắt mũi miệng đều thích giao tiếp với bên ngoài thì cũng là do chúng là con của Ngũ Tạng). Khi tay cầm tay, nó ấm lên, khi ôm, nó ấm lên, nó nối với cả ba phần của cơ thể, nó quảy lý bằng Mạch, nó có một bộ máy phát sóng mà mỗi khi người ta phát tán một điều gì thì bàn tay lại ấm lên: người ta hua tay khi hoảng loạn lẫn khi cầu cứu, nắm chặt khi tức giận, tự đặt tay vào Thân khi đau khổ, gõ những ngón tay khi vui sướng, dùng nó để viết thư tình,... Ban đầu thì không sao, nhưng để quản lý nhau, Não và Ngũ Tạng cùng dồn vốn vào Tay. Kết cục là Tay có một quyền năng phi thường so với Thân: nó muốn làm gì thì Thân phải chịu, và Thân phụ thuộc vào gã đầy tớ nổi loạn này. 

2. Thế chưa xong đâu, em thấy rồi đó, tính tham lam, ích kỷ, bạc nhược và nổi loạn của Thân không xâm nhập được vào não nên tích thành một cục ở trên đầu, em gọi là Chất Xám. Chất Xám này cũng đầy âu lo và bất an như Não và Ngũ Tạng, cũng mù mờ và nổi loạn như Chân và Tay, nhưng nó tự cho nó quyền tự do và đôi khi là kiêu hãnh (buồn cười thế), vì nó thấy nhiều khi mình tách được khỏi cơ thể. Một ngày nọ nó thấy một ánh sáng phát ra từ sâu thẳm, nó liền kể lại với mọi người điều nó thấy, bằng sự tham lam ích kỷ bạc nhược và nổi loạn của nó: đó chính là khi nó kiêu hãnh tuyên bố rằng Ta là Quan niệm Hậu thiên. Cái thằng khốn đấy đấy.

3. Rồi anh bảo với họ, Trí tuệ của Thân phức tạp và khôn ngoan thế đấy. Mỗi cuộc chiến giữa Não và Tim phải đổi bằng mạng của hàng nghìn triệu tỷ tế bào, và cuộc tranh đua trong thân thể thường có quy mô cả trăm triệu tế bào như thế là ít. Những nền văn minh chúng lập ra, những kho tàng mà chúng vùi lấp, những đế chế điên loạn chúng gây dựng... thật không thể tưởng tượng nổi. Trí tuệ của Thân, do đó, là Tranh Đấu. Tính cách của Thân, do đó, là Đố Kị. Xu hướng của Thân, do đó, là Sắc Dục. Sự khủng hoảng của nó, dễ đoán: là Huyễn hoặc.

4. Rồi anh lại bảo họ, vậy nên để thông minh hơn Thân: hãy thôi Sắc Dục, Đố kị, Tranh Đấu, Huyễn hoặc. Một anh bạn lắc đầu. Anh bảo, đơn giản, ví như ghen tuông chính là đố kị và sắc dục, hạ xuống là được, anh ta bật cười nói sao lại vô lý thế, vợ mình nhìn thằng khác lẽ nào lại không nổi giận. Anh cười và chỉ vào anh ta, nói với mọi người:

5. Nghe cái Thân nói kìa!

Thứ Ba, 8 tháng 9, 2015

Một thời đại đẹp

1. Em thử nghĩ xem, nếu em quen một người suốt ngày nghĩ những chuyện con giòi trông ra sao, giun bò thế nào, thịt xương máu me tan rã... thì em sẽ cho đó là kẻ bình thường hay không? Vậy mà những ý nghĩ oán hận, hằn thù, nghi ngờ, nguyền rủa, nhạo báng Thần, bất tín còn tệ hơn thế. Do vậy đôi khi anh thấy con người thật kì lạ: anh thấy một cậu bé ngồi trên xe máy, hớn hở vui vẻ cười, trong đầu toàn ý nghĩ hưởng thụ và tiền bạc, chạy đi tìm nguồn vui thanh sạch và vô thần, và cậu bé đó có thể sống nốt một đời với đầy những ý nghĩ tệ hơn cả máu me giun bọ. Đây là thời đại gì nhỉ?

2. Vào hậu bán thế kỷ XIX, người ta đã mơ mộng về một trường dẫn sóng (vì nếu không có nó, sóng ánh-sáng truyền đi kiểu gì nhỉ?), đầy những hạt vật chất mà họ gọi là ether, một loại hạt Thần Thánh lấp đầy các không gian cho phép sóng được tạo thành và các hạt chuyển động ở một loạt các khoảng không khác nhau gần như đồng thời. Chắc em sẽ thấy phi lý vì trực quan của em không bảo vậy: sóng, như sóng biển, có thể là sóng âm nữa, phải là một sự xô đẩy, dồn ép các hạt vật chất đồng loại hoặc tương tác được với nhau, như thể ta làm quăn một nếp áo - nghĩa là cần gì đến một loại trường dẫn trung gian. Thế rồi người ta phát hiện ra các electron mới là các hạt cấu thành sóng, nên cho rằng ether là một hệ tuyệt đối làm quy chiếu cho không gian và các chuyển động. Rồi Einstein nói về thuyết tương đối, rằng không thời gian là tương đối theo năng lượng của vật thể. Thế thì Ether là cái gì? KHÔNG-còn là gì cả.

3. Anh không biết chắc ai là người đầu tiên nghĩ đến các hạt ether, nhưng họ hẳn đã biết về sự tồn tại của linh giới, hoặc chí ít họ đã biết rằng sự thôi động của không gian này phải xuất phát từ một không gian khác. Người đó hẳn phải hiểu rằng sóng và hạt, sự lan truyền chuyển động theo dạng xoắn ốc và các quỹ đạo dao động, chỉ là hai biểu hiện của một trường vật chất: một dạng bảo trì, một dạng phát tán, và nó không có gì là mâu thuẫn với sự tồn tại của vật thể cả. Có điều là để bảo trì và phát tán được ở dạng siêu-vật lý đó (đến giờ sóng và hạt vẫn là những bí ẩn, chẳng rõ như người ta hay nói đâu), phải xuất phát từ một không gian siêu-vật lý (giờ thì người ta nói về các chiều không gian, thực ra em nên hiểu là các không gian khác nhau, đó là sự tương tác của các mức năng lượng khác nhau giữa các hạt vi quan của vật thể). Nói siêu-vật lý là cho ấn tượng thôi, ý anh chỉ là: một sự tồn tại mà em khó minh bạch tại không gian này, nếu không biết về nó, sau nữa, không tin vào nó. Có vẻ ở thời đại khoa học, niềm tin là thứ đáng khinh trước sự lừa đảo và các thí nghiệm. Hai cái đó có khác nhau không nhỉ?

4. Chắc em vẫn thấy khá khó hiểu về sự tương tác ở không gian khác nói theo kiểu vật lý. Giả thử em là A, A cấu thành từ tế bào (a), tế bào (a) cấu thành từ phân tử a1-a2, còn a1 và a2 là các nguyên tử. Nguyên tử a1 và a2 này có tốc độ và năng lượng cực cao, dù nếu phải đo điện tích theo kiểu dùng máy dò thì em thấy nó bé nhỏ làm sao ấy. Năng lượng của liên kết a1-a2 chỉ bộc lộ khi liên kết này phân rã, em gọi đó là phóng xạ, khi đó một sự phân rã xảy ra thì phản ứng dây chuyển của mọi phân tử a1-a2 khác cũng có thể xảy ra, em gọi đây là vụ nổ hạt nhân. Giờ thì em hơi hiểu về năng lượng của nguyên tử rồi chứ? Giả thử đúng là nó lớn như anh nói, thì sức mạnh nào đã ép chặt năng lượng này trong những vật chất mà em thấy là quá bạc nhược và tầm thường. Em có thể thắc mắc: lẽ nào một hòn đá vô dụng có thể nổ đùng và tiêu hủy một thành phố, cái hòn đá mà em nhặt lên bất kỳ và vứt đi mà không làm rung nổi một cái cây ấy hả? Nhưng đúng thế đấy. Sự liên kết giữa các nguyên tử tạo ra một không gian có các phân tử. Sự liên kết giữa các phân tử tạo ra một không gian có các tế bào. Sự liên kết giữa các tế bào tạo ra không gian có súc sinh và con người. Mỗi không gian có một mức năng lượng khác nhau và hoạt động theo những quy tắc vật lý khác nhau, có gì đâu. Khi người ta cố xâm phạm và lạm dụng các quy tắc của không gian khác để kiếm lợi trong không gian này, nghiệp lực ấy cực lớn: em sẽ có ném bom hạt nhân, chiến tranh, vũ khí sinh học, chất thải ô nhiễm, chết chóc, nghèo đói, bệnh dịch,... Chứ em nghĩ rằng con người độc tôn vũ trụ chắc? Luôn có những sự báo ứng do các Giác giả đặt định, đừng vô thần quá mà không tin điều này.

5. Cái gì duy trì sự liên kết các không gian đó mà không làm chúng lẫn lộn và điên loạn rồi nổ tung? Đó là ether. Anh không bàn thêm xem linh giới và ether là gì. Anh chỉ mỉm cười khi nghĩ rằng, có một thời đại mà rất nhiều người thường nghĩ đến ether, ánh sáng, vũ trụ... Một thời đại rất đẹp, ngay trước thềm thời hiện đại. Anh không cố tình bỏ qua những nghèo đói, vật lộn, tình cảnh nô lệ, thuộc địa... Anh chỉ đang nói là, có một thời, nghĩa là bao gồm có những xứ sở (dù sao thì thời không cũng gắn với nhau), đã có những con người chỉ nghĩ đến những điều lớn lao và thanh sạch. Họ rất đẹp, thật sự rất đẹp, dù chỉ là tiêu chuẩn con người. 

6. Có điều, ai đã dám lộ ra bí mật của linh giới nhỉ? Anh thật tò mò.

(Dĩ nhiên, em đọc đến đây, sẽ thấy rằng khái niệm nguyên tử, hạt và sóng của anh khác với của vật lý. Dĩ nhiên rồi. Vì đây là hai thứ vật lý khác nhau.)

Chủ Nhật, 6 tháng 9, 2015

Chuyện người khác

1. Lâu rồi anh không muốn nói đến chuyện bên khác, vì nói đến là kết duyên, mà duyên thì không phải là chuyện anh muốn kết. Hôm nay trên đường anh thấy một câu hờ hững của những người lờ mờ muốn sạch đẹp: "Văn Thù Bồ Tát nói rằng niệm Phật là vua của mọi pháp môn." Không hiểu sao câu này khiến anh rất nóng nảy. Anh rất thân với Văn Thù, nên việc ngụy tạo lời ông ta là điều khiến anh xem thường. Văn Thù là Thánh giả của các Thánh giả, nắm bắt tri thức của vạn nhà, trí tuệ thấu suốt sáu cõi mười phương. Dĩ nhiên chuyện Văn Thù là thế nào, em cứ nghe đừng bình luận. Kẻ dưới bình luận suy đoán người trên là bất kính. Đôi lúc cái nghiệp của bất kính là không sửa được.

2. Niệm Phật, thời này còn hiểu cả là tụng kinh, chính là rất có pháp lí đứng đằng sau. Người hiểu ra sự màu nhiệm của niệm kinh-niệm Phật là người đã biết được rằng Thần Danh là Pháp Lực, rằng sự niệm của con người biến thành Ý Niệm có thể truy hồi nguyên thủy ý thức và các Thần Lực chí cao. Vì khi điều Tụng-Niệm trở thành Nguyên-Niệm của con người, thì sinh mệnh ấy từ bề mặt tới vi quan là liền lạc thống nhất, chính xác vững mạnh, uy lực vô biên. Chưa kể người có Pháp Lực cao sâu, chỉ động một niệm là triệu hồi các Hộ Pháp của mình. Ví như anh gọi Cự Long thấy Cự Long, là trí và tâm của anh đồng nhất và có khả năng giao kết như một thái cực với vật chất cực Long, Pháp lực sẽ quyết định lượng sinh mệnh mà Cự Long xuất hiện và phối hợp với anh. Ví như anh gọi mọi Duyên, Duyên này tất đến. Ví như anh cầu khẩn Phật Chủ, một niệm đó tính là Thần Thông.

3. Những người tung hô "pháp môn niệm Phật" có vài điều ngộ. Trong đó có một điều anh muốn em nghe họ nói thử - nhớ rằng nghe là kết duyên, tai là Tình, như lục trần khác:

"Chân nhận tự kỷ thác,
Mạc luận tha nhân phi,
Tha phi tức ngã phi,
Ðồng thể danh Ðại Bi.
(Thành thật nhận lỗi mình,
Chớ bàn luận lỗi người,
Lỗi người tức lỗi mình,
Ðồng thể tức Ðại Bi.)
Hãy nhìn nhận một cách thành thật lỗi lầm của mình, không nên bàn luận lỗi lầm của người khác, kẻ khác có lỗi lầm tức mình có lỗi lầm, lỗi lầm của họ cũng là lỗi lầm của mình, phải tìm cách tự sửa sai mới đúng. Chớ nên bất cứ lúc nào miệng cũng luôn nói: "Không đúng, không đúng, không đúng, không đúng!" Thử hỏi như vậy có ích lợi chi? Cho nên có câu: "Ðồng thể danh Ðại Bi," vì tất cả đều là một thể, đó là đại bi tâm. Quý vị đi đâu để tìm đại bi tâm? Quý vị tìm nó từ bản thân của quý vị, chẳng cần đi tìm cầu bên ngoài."

Nghe rất giống hướng nội. Nếu quả thật người thường có thể làm được thế, họ chính là đang trên đường thành Thần.

Em có biết điều Thần Thiêng nghe giống điều nhân gian là khi nào không? Không thể giống nhau được. Chỉ giống khi nhìn từ phía nhân gian, như con người nhân gian nhìn lên bầu trời tưởng vươn tay là hái được sao. Một tâm Đại Bi, một niệm hướng Thần là phải trải qua bao nhiêu khổ nạn, thấu ngộ bao nhiêu chân tướng Pháp lí. Kẻ không học từ Thầy ở không gian này, phải có Thầy ở không gian khác. Kẻ không học từ Não phải học từ Trí và Tâm. Con người nhân gian chìm đắm vào thứ “triết lý về đời sống”, tưởng rằng có một thái độ tốt là tốt, chỉ là con người nhân gian. Thậm chí, họ còn không tốt nổi dù có muốn tốt đi nữa.

4. Nếu quả Văn Thù đã nói rằng Pháp môn Niệm Phật là vua của mọi Pháp Môn, thì đó không phải là Văn Thù. Vì bất cứ vị nào tu đến La Hán đều biết rằng: Niệm không phải là Pháp Môn. Đó chỉ là một Thần Thông, và chỉ là một bộ phận của quá trình tu luyện. Niệm không thể thành Thần, không thể tương thông với Thần. Vì sau việc tụng-niệm đó phải là Tâm-Trí đã gột rửa, chấp trước đã được ước chế buông bỏ, nghiệp đã tiêu trừ.

5. Nhưng chuyện người khác là chuyện người khác. Dù em nghe anh nói gì, hãy nghĩ đến chuyện của mình.



Thứ Sáu, 4 tháng 9, 2015

5 of Pentacles

1. Mất tiền hoặc địa vị
2. Lo lắng
3. Cẩn trọng trong vấn đề tiền bạc

5. Mộc tính ở Dương Thổ. Mộc ở Om



Bến Mê là một chuỗi nhị nguyên bất tận từ bản chất: có được đời sống nghĩa là phải âu lo về nó, đạt được thành công nghĩa là phải giữ chặt lấy nó, không có gì con người “đạt được” mà bến mê không lấy lại. Danh, Lợi, Tình đều như vậy: Bến Mê trao cho con người trong một khoảng hạn, ngoài khoảng đó là sự diệt vong, kết thúc và chấm dứt. Bến Mê buộc con người dùng nó để tự định nghĩa mình, khiến con người xem mọi nhân tố của Bến Mê là bản nguyên sự sống – nếu vậy, cuộc sống là sinh tồn, và sinh tồn là thích nghi, thích nghi chính là một cuộc tranh đấu. Chiến lược của bến mê thường là: tạo ra một thế giới nơi mọi thứ đều khan hiếm – và kinh tế học đã nhận thấy sự thật rùng rợn đó từ thực tế của mọi xã hội. Nếu mọi thứ đều khan hiếm, thì nghĩa là chỉ một số có nhiều, đa phần có ít, và không ai có đủ. Nó còn có nghĩa là, giờ thì Bến Mê có thể hài lòng lùi lại đằng sau kịch trường, nhìn con người đang xem nhau là đối thủ, và mọi sự mất mát đều là bị tước đoạt, sự tước đoạt đó không phải bởi Bến Mê mà là do con người. Đã thế, món quà của bến mê, danh lợi tình, đều là ơn phước của số phận, và kẻ nào trao tặng điều đó cho người khác, kẻ đó được hàm ơn. Một khoảnh khắc khi Bến Mê đã thống trị được quan niệm hậu thiên của con người về ân nghĩa và được mất, Đạo và Pháp lập tức bị đẩy lùi khỏi nhận thức con người hàng vạn dặm. Đây chính là khi Mộc Nguyên hóa thành bùn đất: sự sống là bùn đất, Tâm Trí là Thân, là bùn đất, là dương thổ. Chúa tạo ra Adam từ bùn đất, nhưng Adam đã tưởng mình là bùn đất thật sự, và sống như bùn đất thật sự.

Trong cuộc tranh đoạt và hợp tác thường thấy ở số 5 của Dương Thổ và Om, một loại trí tuệ nhân gian ra đời: ai giỏi kiếm tiền hơn, và một loại trí tuệ bổ sung cho nó cũng lớn mạnh lên: ai giỏi giữ tiền hơn. Tại sao Thân phải có trí tuệ riêng của nó? Để nó không bao giờ thấy mình thực ra đang lụi bại, đang viễn ly chân đích, và để nó an tâm lăng nhục Tâm Trí mà không sợ quả báo – để bùn đất khiến Adam nghĩ mình là bùn đất, và bùn đất từ nay là Adam. Mộc nguyên đã biến dạng đến mức Hình Tướng của nó hoàn toàn mất đi, nó thoái hóa thành thứ khác. Năng lượng từ cái chết của Mộc nguyên, cũng là sự tắt thở của sự sống mà Thần thánh ban cho con người, mở đường cho sự trỗi dậy của Ma Quỷ. Ma Quỷ cần mộc nguyên để biến hóa. Đây là một trong những điểm mấu chốt của luân hồi: con người sẽ dấn sâu hơn vào luân hồi bất tận, hay sẽ vĩnh bất siêu sinh, hoặc thoát khỏi lục đạo?

Một khi thứ trí tuệ kiếm và giữ tiền ra đời, nó sẽ khiến Tâm Trí phải bối rối và suy sụp: dường như Tâm Trí chẳng biết phải làm sao với Tiền cả - trong lịch sử đúng là như thế. Từ đó Tâm Trí vừa viễn cách với tiền bạc, vừa tự thấy bất lực với Tiền. Đây là vố lừa khủng khiếp nhất của bến mê, tương đương với khiến một trinh nữ phải tủi hổ trước hàng đàng điếm. Nhưng bi kịch sẽ kéo dài ra ở cuộc gia nhập của các yêu thú và ma quỷ muốn giành lấy Thân người làm nơi trú ngụ bằng cách đưa ra món mồi Danh Lợi. Bến Mê, kẻ đứng sau mọi sự thoái hóa cùng cực, thích thú nhìn loài vi khuẩn của nghiệp lực này đâm sâu vào mạch máu của Thân và từng bước chiếm hữu lấy tim và não của Thân, để chiếm đoạt nốt Nguyên Khí sau đó. Tâm Trí, đã quá chán nản và tuyệt vọng, chuẩn bị làm một cuộc tự sát tập thể đầy đau đớn.

Tâm sự cuối ngày

Khi nhìn những ký ức của ông ấy, anh đã xúc động, như thể ông ý còn đây và những ký ức kia đều còn sống. Trong một khoảnh khắc tim anh vừa định đập lại vì những con người nhân gian từng vướng nợ với ông ý, anh thấy lạnh lòng. Anh dẹp đi nhịp tim đó. Anh tiêu trừ niệm đó. Tuyệt Tâm Tuyệt Tình với anh không khó. Một niệm là xóa bỏ. Chỉ là anh còn chút khinh bỉ những kẻ cố cầm dao đâm nát lưng anh, một chút khinh bỉ đó giữ anh lại với đời. Và còn một chút khác nữa, một chút yêu quý những người không ngừng vươn tới sự thanh sạch, cùng một chút thương cảm những người anh lẽ ra có thể cứu nhưng đã bỏ qua.

Thập đại hạn giáng xuống đầu, anh đã choáng váng và mệt mỏi không ít. Anh thấy bàn tay bám những mỏm đá sắc bén bật móng và bật máu, đôi chân đạp lên từng vách trơn tuột cũng bật máu. Anh thấy bạn bè, con cái, người thân, người lạ, người tốt, người xấu giơ dao và ném những hòn đá tẩm độc về phía anh. Có những khoảnh khắc anh đã cay đắng, rất cay đắng, vì thế anh quyết không rơi xuống. Vào khoảnh khắc đau đớn nhất khi những người ta dang rộng tay nhất để bảo trợ họ lại nhe hàm răng nhọn hoắt hòng khoét lấy thịt da ta, anh đã cắn chặt răng, đã để trái tim mình bung ra thành từng mảnh trong vài khoảnh khắc. Chỉ thế thôi, anh đi tiếp, bỏ họ lại sau lưng: nghĩa là ném họ lại vực thẳm. 

Rồi anh đã phải cúi đầu, nhẫn nhịn và chịu nhục, nghe những kẻ phàm tục luận bàn và chửi rủa, khinh bỉ nhìn anh và thỏa dạ đàm tiếu cả sau lưng lẫn trước mặt. Anh chịu đựng sự giả dối và phải im lặng khi những kẻ nhỏ nhen dốt nát dạy bảo anh về lẽ sống, đánh giá anh về phẩm hạnh và vùi anh xuống chỗ tuyệt vọng. Trong những giờ phút đó anh gần như thấy mình bỉ bỏ mặc: không Thần thánh nào, không phép lạ nào, chỉ có đổ vỡ và vùi dập. Chỉ còn duy nhất đức tin vào Phật Chủ dẫn lối anh, có một khoảnh khắc nào đó anh đã bật khóc trên con đường đó. Chỉ trong vài phút ngắn ngủi. Nhưng điều đó càng hối thúc anh phải leo lên đến Mặt Trời. Tất cả càng khiến anh không thể lụi bại, không để nhân gian này la liếm và làm nhục. 

Khi những con người tưởng như tử tế đặt cái mặt nạ xuống và khoe mẽ gương mặt gớm ghiếc, anh đã ngoảnh đi và bước tiếp. Anh chưa bao giờ thôi tin rằng Trí Huệ, Phẩm Hạnh mới là những điều lớn lao nhất. Anh đã chứng kiến sự giả dối, ngu dốt, oán hận, hằn thù - vì thế anh sẽ không bao giờ giống như chúng. Anh đã gọt từng bọng máu đọng trên mắt, anh đã cắt từng vảy tình bám trên da, anh đẽo sạch những cảm nhận lung linh về thành quả đời sống còn sót lại trong mình. 

Những ngày cuối cùng trong ma nạn đó, cách đây không lâu, Thân anh rữa nát ra và anh thấy không thể cử động nổi, đau đớn đến kì lạ và cuộc sống dường như chấm dứt, mọi giác quan đều phản bội anh và mọi mạch máu đều chối bỏ anh. Lúc đó anh thấy một cỗ xe đến trước mình. Anh có lẽ đã yếu lòng, anh chìa bàn tay về cỗ xe và nói, hãy đưa tôi đi. Chính cái thời khắc đó anh khát khao được giải thoát. Anh khát khao được giải thoát, là vì anh đã hi vọng gì đó thật lớn lao ở đời sống này, những con người nào đó...

Chắc đó là nỗi đau lớn nhất. Anh móc trái tim ra và đốt nó, nghe nó cháy xì xèo và than khóc. Nhưng việc vẫn chưa dừng lại. Anh phải lựa chọn giữa oán hận, cái ác trong anh, với điều Thiện và công chính. Anh có cơ hội đày từng kẻ ác độc xuống địa ngục trần gian một cách tàn nhẫn nhất. Suy tưởng trả thù tràn ngập anh trong nhiều ngày. Nó đôi lúc khiến anh điên lên và đôi khi làm anh hả hê. Anh đã suýt đánh mất linh hồn trong hận thù. Anh đã suýt nữa rất tệ hại. Nhưng vào lúc tối hậu, Người đã điểm hóa cho anh. Anh đã đứng dậy lần nữa, anh rũ sạch hận thù vốn như bụi bẩn đè nặng tâm can. Anh để chúng cho những người bảo vệ luân lý phán xử. Kết cục của chúng dù là thảm hại hay đau đớn thế nào, anh không còn quan tâm nữa. 

Con đường phía trước dù là gì đi nữa, thì anh còn phải vượt qua những gì đi nữa, thì điều lớn lao trong anh là điều Thiện đã trở về nguyên vẹn, lớn lên cùng điều Nhẫn bất diệt và Chân Trí mà anh được trao truyền.

Nếu em đọc được những lời vô tình này, thì đừng sợ, đừng chạnh lòng. Hãy thắp lửa đi về phía mặt trời. Dù em ở đâu, dù bất cứ phương trời nào.

4 of Pentacles

1. Mãnh lực đồng tiền
2. Quà tặng bằng hiện kim
3. Cất giấu tài sản

4. Mộc tính ở Âm Kim. Mộc ở cung Ni

Con người nhân gian sống trong hai đầu của sự sống, thực ra là đỉnh và đáy của một Kim Tự Tháp. Đỉnh là sự sống bản nguyên, hơi thở của sự sống, của Thần, mà những người dâng hiến sự sống phàm tục nhận được. Đáy là Bến mê, mà những người đánh đổi thân tâm trí giành được. Kim Tự Tháp ấy xây nên bằng thứ vữa là lợi ích vật chất, nó đảm bảo tất thảy giao thiệp với nhau, nhưng dần dần nó tất cả lại trở thành phương tiện để nó tồn tại. Nó khiến người ta khốn quẫn vì thiếu nó, sự khốn quẫn này xảy ra thường kì đến độ con người cảm thấy sự bất ổn và lo lắng khi sở hữu nó. Mong cầu sở hữu này nặng lên khi tâm đố kị làm nhân lên giữa họ cuộc tranh đua vật chất. Ở ngay lúc này Mộc tính trở thành Âm Kim, tiền bạc trở thành con người, cá nhân trở thành con người-xã hội. Tiền bạc, phương tiện của tồn tại, đã đẩy tồn tại lên làm chúa tể của sự sống, nó truất ngôi sự sống bản nguyên, và tìm cách lạm dụng Mộc tính đến hết mức.

Sự tồn tại của bến mê chỉ là tăm tối, trong đó con người lần mò và sụp đổ, ngã xõng xoài trên những vực thẳm đầy tiếng than vãn. Ở đó, trong một xã hội nguy cơ ngày càng lan rộng, mạng người, đạo đức, tài năng, Thần, đức tin, tình thương, lương tâm đều được quy đổi thành tiền, tiền này phải được nhân lên trong các quan hệ để thỏa mãn cả hai đầu của quan hệ, nghĩa là thành hành động đầu tư. Ngược chiều với đầu tư là tiết kiệm, nhưng bây giờ thì cả hai thứ này trở thành một, thành duy nhất, thành mặt xấp và ngửa. Đỉnh điểm của nó là sự ra đời của các Ngân hàng, nơi những phương tiện của sự sống trở lại thao túng sự sống, công cụ trở thành ông chủ và ma quỷ đáng lo ngại hơn Thần thánh. Sức mạnh của đồng tiền nguyên chỉ là: người ta dám đánh đổi để có được nó, sau đó, nó trở thành một lực lượng khuynh đảo xã hội. Nhưng đó còn chưa phải là bi kịch tồi tệ nhất của sự thoái hóa Mộc nguyên.

Thứ Năm, 3 tháng 9, 2015

Oxi *Oxy*

Để anh kể cho em nghe một chuyện, không lấy gì làm hay ho nhưng quan trọng, vì con anh vừa hỏi anh rằng Oxi, tại sao Oxi.

Sau thời kì của tảo và các sinh vật phù du, trái đất đột nhiên tràn ngập oxi. Về lí mà nói, oxi khi đó chỉ là chất thải của các sinh vật (tình cờ, cả với thực vật), và còn là một chất độc nữa. Cả trái đất tràn ngập Oxi, một chất hỗ trợ sự cháy kinh khiếp, và là cửa dẫn của Mộc Tính nguyên thủy. Nhờ có oxi, một hệ sinh vật mới tận dụng Oxi xuất hiện. Đó là Khủng Long. Chúng cực kì to lớn là do lượng oxi, lượng oxi này giúp thân chúng kết hợp với hiđro tốt hơn, tổng hợp vật chất nhân gian (mọi loại khoáng chất, protein, lipid...) tốt hơn. Vì thế chúng to đùng. Như lá 3 of pentacles mà anh đã nói: Mộc tính hiện hình thành Mộc, súc sinh đạo.

Đó là một an bài để đặt định tam giới. Đến nay vẫn vậy. Mỗi sinh vật to lớn đều ngốn một lượng oxi lớn, kể cả con người. Những người to béo cũng vậy: họ cần một lượng oxi lớn hơn người thường làm cửa dẫn cho Mộc tính nguyên thủy của họ. Vì thế những người xung quanh họ khó mà hòa hợp với họ: thật đấy, những người to lớn thường khó hòa đồng với xung quanh, đó là cuộc cạnh tranh oxi, tranh đoạt Mộc tính nguyên thủy. Em có thể thấy những chủng người to lớn thường sống ở những nơi có điều kiện oxi và khí hậu tốt hơn. Thật đấy. Về Thân mà nói, điều tệ hại là, những người to béo do đó thường đi vào 2 tâm trạng: một là quá khích thích chinh phạt và tranh đoạt, một là yếm thế và luôn thấy cô đơn. Thật tội họ. Nếu biết điều này rồi, em sẽ hiểu cả những người nhỏ bé: luôn thấy mình thua thiệt hoặc thấy bất công, vì họ thiếu Oxi.

Tình cờ hoặc không, Oxi không phải là Mộc tính nguyên thủy, nhưng không có nó thì không biết làm sao để tích lũy Mộc tính nguyên thủy. Giống như tiền vậy: người ta cứ điên cuồng vì tiền, dù tiền chẳng là gì ngoài là giấy. Em thấy không. Như lá 3 of Pentacles,

Thế là anh đã nói những điều rất bí mật. Nhưng chỉ là rất bí mật, nếu em ngộ ra.

Cố lên

Thứ Tư, 2 tháng 9, 2015

Tặng Anius

Cần thời gian để hiểu Ông. Cảm ơn Ông.

Lá 3 of Pentacles.



1. Công việc mang tính sáng tạo
2. Tạo dựng, thiết lập, sáng chế
3. Giao dịch kinh doanh

Mộc Tính ở Dương Mộc, Mộc ở Đông Thiên Vương, Xanh rực rỡ



Sự sống bản nguyên bắt nguồn từ ý niệm bản nguyên, đó là đạo lý thực của trời đất: Ý Niệm bản nguyên này không phải là một ý nghĩ, mà là diễn hóa của pháp lý. Nhưng cũng như sự nhầm lẫn giữa ý niệm bản nguyên hay Nguyên Thủy Ý Thức của một cảnh giới với ý nghĩ của người thường, Bến Mê trói buộc con người vào đời sống bằng chính sự nhầm lẫn ấy: tạo lập ra đời sống, và khiến đời sống thuộc về bàn tay con người. Thực vậy, kết cấu của toàn thể Bến Mê là một, trung tâm của bến mê ấy là Thân người, từ Thân người những nguyên lý thấp kém hơn đều được tạo lập, và những nguyên lý cao hơn định hình. Sự kết nối giữa Thân với Bến Mê tạo ra ảo tưởng mãnh liệt về bản chất của sự sống, ngay khi đó Thân tạo ra Tim và Não của nó: hai nơi này lưu giữ những quan niệm của Thân. Chính những quan niệm này sẽ vừa là rào cản đối với Nguyên Thủy Ý thức sâu thẳm trong con người, vừa là chất tạp nhiễm lây lan vào Tâm và Trí. Nhưng nó đã làm được một việc ghê gớm hơn nữa để tóm lấy Tâm và Trí: nó hướng dẫn Chân Tâm và Thần Trí hoạt động theo cách thức của nó. Mộc tính trở thành Dương Mộc, nhưng vì thế Mộc tính đánh mất Tính của mình. 

Đây là cuộc dấn thân bất đắc dĩ của Đông Thiên Vương. Đây chính là cội nguồn của sự sáng tạo trong nhân gian, sáng tạo ra toàn thể đời sống nhân gian. Sự Chân Thiện của Trí và Tâm trong cuộc bắt tay này ban đầu là một điều tốt, nhưng cũng là một giao dịch, một hiệp ước mặc cả: tạo lập cho Thân toàn bộ những gì sẽ giải phóng nó. Nhưng Thân không bao giờ thỏa mãn những gì sẽ giải phóng nó: nó cần nhiều nhà hơn, nhiều kỹ nghệ tối tân hơn, nhiều dòng sông bị uốn nắn hơn, nó cần tận dụng và lạm dụng thời gian lẫn mặt trời, nó thậm chí vẫn thờ Thần nhưng là để kiếm chác. Để chống lại cuộc mặc cả Sai Lầm này, Tâm và Trí trong thời cổ đã tìm cách bứt ra khỏi đời sống của Thân, đi vào rừng sâu núi thẳm, từ chối mọi liên kết, đòi hỏi sự khắc khổ. Tâm và Trí biết rằng mỗi cuộc giao tiếp của Thân sẽ khiến Thân mạnh lên trong ý tưởng tạo dựng, sáng tạo đời sống thỏa mãn nó, và khiến nó lao đầu vào kinh doanh, buôn bán, lợi nhuận, tiền – Thân sẵn sàng xem Tiền là mục đích của sự sáng tạo, đây là sự phản bội khủng khiếp nhất của Thân trước Tâm và Trí. Đây cũng là lúc Mộc Tính bắt đầu đánh mất bản thể Dương Mộc của nó để trở thành Âm Kim.