Âm Tiên đứng trước một cửa thành, băn khoăn nhẩm tính. Thằng bé đợi một lúc lâu bất nhẫn cất tiếng: "Sư Phụ, nơi đông người này không tốt cho người tu Đạo, chúng ta chẳng phải nên rời đi sao? Nãy giờ con
thật lòng khó chịu, nơi đây người ta tỏ vẻ đạo mạo vậy mà lòng dạ độc ác, hung khí hườm sẵn trên mặt, tuồng như chỉ đợi thời cơ hành ác." Âm Tiên thở dài bảo: "Nhưng ngươi là phải đến đây. Tiểu tử, nơi này nguyên là đường dẫn lên cõi Đại La."
"Thảo nào con nhìn từ xa đã thấy tinh khí tụ lại như Kim Long,
thoắt thấy sông hồ đều có bóng dáng Thủy Long, nhưng đều nhiễm ô trọc của người thường, Sư Phụ, sao mà con người dám đến đây lập nhà cửa, nói chuyện phàm? Con đồ rằng những kẻ ác khí ấy
thật sẽ dị nghị Thần linh, phỉ báng tín tâm, hủy hoại Đạo lí. Làm sao các vị Hộ Pháp
lại để con người tràn vào đây vậy thưa Sư Phụ?" Âm Tiên ngước nhìn Trời, lẩm nhẩm: "Hoàng Thiên hữu nhãn, vì đưa thằng bé đến đệ nhị Long Địa, ta lại
phải đến nơi
đây một lần nữa." Nói đến đó bất giác Âm Tiên ngẩn người. Thằng bé im lặng một lúc đoạn cất tiếng: "Sư Phụ, người là thế ngoại tiên nhân, đứng ngoài
nhân thế, tại sao còn mang tâm
tình đến thế?" "Tiểu tử, trên Linh giới còn có
Thiên Đình, trên Thiên Đình có Đại Thiên Đình, trên Đại Thiên
Đình có Chí Tôn Đường, trên Chí
Tôn Đường còn có nơi cao nữa. Vậy mà là trong Tam giới,
lại chưa xuất khỏi Tình. Có điều Tình ở mỗi cảnh giới của Tam giới lại khác nhau. Ta
thật chưa tuyệt
tích khỏi phạm vi của Tình."
"Sư Phụ, tuyệt tích
khỏi phạm vi của Tình, nghe thật kì diệu." "Ngươi biết nghĩ lắm. Tình là một sinh thể,
rộng mà nhỏ, lớn mà bé, tràn ngập mà len
lỏi. Trong phạm vi của Nó thì là
như nó, vật trong nó thì ăn thở vạn việc đều dùng Tình mà diễn hóa.
Tình vô hình mà trải khắp, lại biết truy dấu người ta, hễ muốn tách khỏi nó, nó càng truy cho bằng
được. Ai sống trong cõi Tình thì nợ Tình, hễ ở đây thì đã là nợ rồi,
có nợ phải trả, nợ nặng phải đền, càng muốn xa Tình thì càng phải đền lớn. Vậy nên con
sau này khéo vô hình thì sẽ khéo
vô tình, Tình sẽ không lôi kéo hãm
đọa con được."
"Sư Phụ, hôm nay người nói chuyện thật hiền từ khác với
mọi ngày. Con có điều không rõ: vô hình mới vô
tình được sao?" "Tiểu tử, đừng dùng tình mà nhận xét người khác, đừng dựa vào Tình của vạn vật mà phán xét vạn
vật. Đá nhỏ lăn lóc có khi là Thạch Tâm, đồ quý được đeo tìm hóa ra lại vô dụng. Lại nói cho
ngươi biết, vô hình mới vô tình được, đó là khẩu quyết tu luyện trong môn phái chúng ta. Giống như ta nói, bỏ chấp trước con mới có trí huệ được." "Con hiểu, mà tuồng như sau điều ấy áo diệu sâu xa." "Vậy con cứ nhớ lấy, khi gặp
khó nạn tất biết đâu là lẽ đúng."
Thằng bé chợt tái mặt: "Sư Phụ bảo con gặp khó nạn, con không sợ khó nạn, chỉ xin đừng bắt con sống ở nơi này, sao mà chướng khí nhân tâm dày đặc,
thật đáng chán ghét." "Có người phải bắt lánh khỏi Tình mà trừ Tình, có kẻ phải nhúng vào Tình mà biết bỏ Tình. Ngươi từ bé sống với người tu Tiên, lâu dần đã quen một cảnh giới của Tình, vậy nên khó trừ bỏ, phải cho ngươi vào tạp
thế hỗn loạn, thấy biết mọi chủng Tình, mới thật trừ bỏ được cội rễ
Tình trong ngươi." "Thưa Sư Phụ, đạo lí này phải chăng quá đỗi kì dị? Con thường nghe áo khéo giữ thì không bẩn, người khéo tu chớ nhuộm Tình, nay Sư Phụ
cho con vào chỗ bùn đất, lại bảo con khéo
giữ áo trắng
sạch, thì con biết sao đây?" "Tiểu tử, ngươi có biết tại sao nhà
Phật cho người
ta tu tập trong tăng đoàn, rồi lại
bắt người ta lang thang nơi cõi tục không? Là vì
lâu ngày giữ người tu xuất phát một loại Tình, loại Tình này dung
dưỡng tình trạng
tu luyện của họ, khống chế họ, do đó từ ấy mà đi lên thì càng đi càng khó, thậm chí vài trăm năm không tu lên được, nhiều hơn cũng không tu được, bãi bể nương dâu đổi qua tráo lại nghìn lần vẫn đang ẩn mật bế tắc. Ta nói con hay, tình huống của con thì tu luyện như giặt áo, không phải là càng nhúng vào chỗ sạch thì càng sạch, mà là
trong một nước
ấy phải làm con khổ đau mà nhận thức, thật sự trừ bỏ các loại tình. Đừng nói là con không tạp
nhiễm, thậm chí ép con phải vào hoàn cảnh như tạp nhiễm mà dám thanh sạch."
Thằng bé nuốt nước bọt, dường như đã kiệt ý: "Sư Phụ, con thấy lần này con sẽ bị trầm mình
vào thế tục, e là khó mà bứt ra được." Âm Tiên cười bảo: "Ngươi vì trăm họ mà ở đây, trong ba chữ Lê Dân, Bách Tính, Đại Gia đều có nghĩa là Trăm Họ Dân Chúng, ngươi thích lấy
tên nào?" "Thưa Sư Phụ,
sao con lại cần tên?" "Trước đây các vị dạy ngươi đều không muốn ngươi có tên, muốn ngươi vô danh, vì Vô Danh gần với Vô Hình, do đó gần với Đạo hơn là Hữu Danh, nhưng nay ở nơi thường nhân, ngươi cần đến Danh Tính."
"Con hiểu điều ấy, nhưng sao lại bảo
con vì chúng sinh, chúng ta có độ
nhân rộng đâu
thưa Sư Phụ? Lại nữa, con thật khó
nghĩ. Hữu Danh tất là cửa của Tình, có tên tất
muốn gắn tên ấy lên quan hệ với người khác, lại gắn lên sự tồn tại của vật khác, chấp vật chấp tình
tham ái tham dục đều sẽ mạnh lên từ đó. Giờ con đã bị vứt nơi người thường, lại còn Hữu Danh nữa, thì thật ra là sẽ ra sao đây? Con
không sợ chết, chỉ sợ phải lìa Đạo."
"Nước ở nơi ta đã
cạn, con là phải đến nơi này. Chớ đa ngôn,
con chọn tên nào đây?" Thằng bé ngơ ngẩn, bỗng mỉm
cười: "Thưa Sư Phụ, thủy kiệt là
quẻ Cấn, dời đi là quẻ Tốn. Thấy núi là cùng đường,
Trời đất tuồng như đã tận, con người đừng sống thì Thiên Địa được tốt. Hiềm vì Đạo thì Sinh Sinh bất diệt, nên
Cấn lại còn có Tốn, từ đó có Sơn Khí truyền
đi, không phải là gió, không phải là nước. Vì Sơn Khí muốn bốc lên phải có chỗ dung hòa gió nước, đó chính là Cây. Thường nghe Cây nhỏ thì như thường, lớn lên ảnh hưởng đến quang cảnh cả vùng, đây chính là chỗ Đạo Lí của Chân Nhân: khi tu
thì vô danh, hiện thế thì làm
Thiên Hạ đều
biến chuyển, mang cái Đạo của riêng Trời Đất thuần khiết mà làm cải
biến con người. Vì từ Sơn Khí đến tỏa phát đều lớp lớp sự
vụ như thế, nên nói quẻ này là Phong
Sơn Tiệm, nghĩa là nghi lễ đầy đủ, đúng mực thước an bài của Trời Đất mà biến cải Nhân gian. Con lại trộm nghĩ Cấn thuộc Âm Thủy, là nước nơi sâu nhất đẩy đất lên thành Núi, nên Tốn ứng với nước này là Âm Kim, thứ tinh hoa nhất trong lòng đất, chính là điềm Vàng đến Nhân gian, đọng trên núi lớn, chỉ kẻ được ban truyền mới biết được Ngọc ở nơi đâu,
đây là chỗ quý nhất của Long Mạch, chính là Ngọc Rồng. Thưa Sư Phụ, lần
này theo điềm của Thiên Địa, là người muốn con biến cải nhân gian chăng? Lần biến cải nhân gian này, là muốn con làm Vua mà biến cải
Nhân gian đây chăng? Tốn có hai vạch Dương, Cấn có một vạch Dương, vậy là có ba vạch Dương. Sư Phụ bảo con
chọn một trong ba tên, là vì lần này ngoài con ra, còn có đến hai người nữa ứng mệnh Đế Vương chăng? Nhưng con biết phàm đã tu Đạo đừng làm Vương Chủ, con thật bối rối không rõ ý của Sư Phụ?" "Ta bảo ngươi chọn thì nên chọn, đón ý của ta làm gì vậy? Lẽ nào ngươi gọi ta là Sư Phụ, mà ta không
vì sự tu luyện của ngươi chăng? Tiểu tử, ngươi học với Không Lộ tuy tiếp thu nhiều lẽ, mà thành ra tư ý cũng mạnh lên, thấu biết một chút
đạo lí, thành ra tự cho mình đạo lí, sau này chớ như vậy."
"Thưa Sư Phụ, con thật mang tội với Đạo. Lê Dân là Lê, Bách
Tính là Tính, Đại gia là Đại. Con nguyện làm người
cải biến Long Địa, nhưng chỉ vì bảo vệ Đạo mà làm điều đó. Con thấy làm người là Khổ, trăm họ đều lầm than, nên chọn Lê làm họ. Nguyện vệ Đạo, xin chọn
Duy Hộ làm tên." Âm Tiên nhìn thẳng vào mắt thằng bé, đoạn bảo: "Vệ Đạo không bằng Trợ Đạo, vậy ta đặt tên con là Duy Hựu. Từ
nay ở nhân gian, tên con là Lê Duy Hựu, nhớ đừng quên tên do ta ban. Ấy là
vì Mệnh và Nguyện của con mà ban tên ấy."
"Con xin được nhận tên Lê Duy Hựu, con kính
tạ Sư Phụ,
tuyệt không từ nan."
Năm ấy Lê Duy Hựu 9 tuổi, đã tinh thông các Thuật Phong Thủy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.