Ngoại truyện không phải phần truyện phụ, ngoại
truyện là những điểm mấu chốt của duyên nghiệp. Mỗi phần truyện chính giống như
một dòng chảy, giống như một mảnh, đấy là một mảnh,
một dòng chảy. Nhưng mỗi ngoại truyện giống như một huyệt, một tụ
điểm. Chúng ta
đang xét trong một cốt truyện thì nhân vật quan trọng hơn, hay là những dòng chảy của câu chuyện, những
biến cố quan trọng hơn? Ai cũng có thể có một đáp án cho riêng mình, không thể nói phần nào quan trọng hơn. Nhân vật làm nên biến cố,
biến cố làm nên
nhân vật, nhân vật ở đấy vì biến cố, biến cố ở đấy vì nhân vật, nói chiều nào cũng đúng cả. Cho nên, ngoại truyện rốt cục là để tạo nên những huyệt,
những chỗ hội tụ của những dòng chảy duyên nghiệp mà ở đấy duyên nghiệp sẽ còn phát sinh tiếp, những Thần Sự sẽ còn phát sinh tiếp.
Chúng
ta đã từng nói điều này, hãy nói lại một lần nữa, trong Phật giáo có ba qui luật được xem là hàng đầu và được xem là mấu chốt
của toàn bộ quá trình tu luyện của con người. Thứ nhất là dòng chảy duyên nghiệp, có duyên có nghiệp, có nghiệp có duyên, hễ có duyên tức có nghiệp, hễ có nghiệp tức có duyên, duyên là nghiệp, nghiệp là duyên. Thứ hai là dòng chảy nhân quả, đây quả là một điều kì lạ, xét đến cùng chúng ta có tin vào nhân quả hay không? Nếu như nói một người vì ngu ngốc mà làm một điều gì đấy, rõ ràng có một người khác cũng làm việc đấy mà không cần phải
ngu ngốc, đâu là
nhân quả đích thực? Rất khó nói. Nhân quả đích thực, nhà Phật bảo, không phải do điều
này qui
định điều kia, mà là do duyên nghiệp, chính duyên nghiệp tạo nên điều đấy. Nhưng nhà Đạo bảo không phải là duyên nghiệp, duyên nghiệp không phải là mấu chốt, vấn đề chính là Tính - Mệnh. Tính - Mệnh tạo nên điều đấy, có Tính như thế, có Mệnh như thế, vào Vận như thế, thành Số như thế,
đấy gọi là nhân
quả. Mỗi nhà có một thuyết khác nhau về nhân quả, nhưng
nhân quả là trọng tâm. Cuối cùng, quy luật thứ ba, quan trọng nhất: báo ứng, báo ứng thể hiện trên – dưới. Nếu
như duyên
nghiệp thể hiện mối quan hệ trong –
ngoài, nhất định là phải bộc lộ ra trong với ngoài; thì nhân quả bộc lộ quan hệ trước – sau; và báo ứng bộc lộ quan hệ trên – dưới. Nó là những trật
tự của thế gian, trật tự của Tam Giới, bất kể như thế nào cũng nằm ở trong
điều đấy cả. Báo ứng thường đến từ Vô Sắc giới, nhân quả thường
đến từ Sắc giới, và duyên
nghiệp thì nảy sinh trong Dục giới, hễ có duyên nghiệp thì thể nào cũng
phải trả qua Dục giới. Một Thần Tiên làm một việc không hay, nhất định sẽ xuất hiện ở trong Dục giới, ở trong nhân gian, không làm sao khác được.
Có một câu chuyện chúng ta gặp rất phổ biến ở trong mọi truyền thuyết, công chúa ở trên Thiên Đình - khi nàng đánh vỡ một chén ngọc và nàng bị giáng xuống làm người thường, điều đấy có nghĩa là gì? Tại sao lại
đánh vỡ một chén ngọc? Tại sao Sa Tăng đánh vỡ một chén rượu và cuối cùng lại phải
xuống nhân
gian, lại phải làm hà bá ở sông, tức là làm ở trong
Dục giới? Hễ một duyên nghiệp nào nảy sinh, hễ một nghiệp nào, một tội nào chúng ta gây ra, chúng ta nhất định phải xuất hiện lại dưới dòng chảy duyên nghiệp. Tất cả
những sự gắn bó về Dục giới trong nhân gian: yêu thương nhau, ghét nhau, căm hận nhau, dù là gì đi nữa, dù bất kể vấn
đề nào do
cung Pad gây nên, dù là một điều gì ở trên kia, dù là một điều gì ở dưới này, cứ đúng một tội lỗi ở trên kia, một điều chúng ta gây ra - đánh vỡ một chén ngọc, làm rách một chéo áo, ăn mất một quả đào mà chúng ta không nên ăn, thứ gì có thể làm loạn Thiên Đình? Đấy là Dục giới - con khỉ, dạng như
thế, luôn luôn
là như thế, không bao giờ thay đổi.
Nhưng
có một chiều khác, một tội lỗi được gây ra dùng để xuống thế gian, để thay đổi thế gian, để bảo dưỡng thế
gian, một thế gian quá đau
khổ. Đánh vỡ chén ngọc, đấy không phải là một tội lỗi
để xuống Dục giới, đấy là một tội lỗi để có thể xuống Dục
giới, nói thế thì đúng hơn. Đánh vỡ chén ngọc tức là đánh vỡ qui tắc
của Thiên
Đình, làm ngược lại với qui luật của Thiên Đình. Tại sao như thế? Bởi vì Thiên Đình có báo ứng, Thiên Đình là Vô Sắc giới, Thiên Đình hoạt động
theo qui luật báo ứng. Nếu như người không làm thế thì Trời không phạt thế;
người không
dâng lòng thành lên, không dâng sự thiêng liêng lên thì Trời không giúp; người không có nhân tâm đấy không thể tốt lành thì Trời cũng không liên quan; nhân tâm đấy mà làm chuyện bạc ác thì Trời sẽ trừng phạt. Nguyên tắc là như thế, đấy gọi
là báo ứng. Cho nên nếu không hoạt động
theo báo ứng mà hoạt động theo duyên nghiệp, lúc đấy không biết đâu mà lần, lại
phải xuống Dục giới.
Khi Liễu Hạnh - Quỳnh Nga công chúa đánh vỡ chén ngọc để
xuống nhân
gian, đấy chính là bắt đầu một duyên nghiệp với nhân gian. Đánh vỡ qui tắc của Thiên Đình, vượt ra khỏi báo ứng, Trời
không phạt con người nữa mà Trời lại cứu con người, cho nên nàng xuống thẳng
Dục giới.
Người ta đồn về thuyết tam sinh tam thế. Hãy nói về lần đầu
tiên nàng
giáng thế. Nàng giáng thế lần đầu trong dòng họ Phạm, nàng sinh ra trong một gia đình không tầm thường chút nào, thậm chí không bình thường chút nào. Chúng ta đừng tưởng Liễu Hạnh sinh ra
trong một gia đình
bình thường, có Thái ông, Thái bà. Chúng ta có hai cách hiểu, thái ông, thái lão – tức là rất
già, một ông rất già và một bà rất già. Một cốt truyện rất phổ biến đúng không?
Cũng có thể chúng ta hiểu là ông Thái và bà Thái, họ Thái chăng? Ít nhất là nàng đã giáng thế, gia đình này không bình thường, cái tên đấy chứng tỏ họ là một gia đình tu Tiên. Một gia đình tu Tiên nọ, vào một tuổi nọ, một Linh Khí ở trên Trời quá thanh sạch - do đánh vỡ chén ngọc mà đã giáng xuống vào bụng một người đàn bà, người đàn bà này đã rất có tuổi. Chúng ta gặp được cốt này trong truyện của
Abraham, khi người phụ nữ già có con và đứa con này sẽ thay đổi thế gian, đứa con
này sẽ thống trị thế gian, con cháu của nó sẽ thay đổi
thế gian.
Khi Liễu Hạnh giáng thế lần đầu trong gia đình Thái ông - Thái bà, người ta đồn là nàng mang họ Phạm. Thái ông - Thái bà bản chất là người tu Tiên, nhưng bởi vì họ chưa thoát, họ vẫn còn quanh quẩn trong Dục giới để làm một số việc, làm một số duyên nghiệp, cho nên điều cuối cùng mà họ phải làm là mang thai. Thực ra họ không phải mang họ Phạm, họ Phạm có nghĩa đây là phạm nhân, đây là Trời đày xuống. Về sau người ta lấy Mẫu
làm bà
cô Tổ của dòng họ Phạm, không nhất thiết thực sự là dòng họ Phạm.
Giống như khi người ta hỏi Mẫu - một ngày nọ Mẫu lớn lên, Liễu Hạnh
lớn lên, lúc
đấy nàng đã vô cùng xinh đẹp, nàng nhỏ nhắn, ánh mắt sáng như sao, mái tóc đen như gỗ mun, lúc này nàng bước trên vùng núi đấy, bước
chân của nàng đến đâu nơi đấy đều nở hoa, nàng đến những vùng đất cằn cỗi
nơi đấy hồi sinh, nàng thò
tay xuống dưới nước bỗng nhiên có cá nhảy, sen đã tàn, nàng đi qua liền nở, nàng đi qua những người mệt mỏi, người đấy được hồi phục, khi bão giông gặp nàng, trời lại
quang mây tạnh, nơi nào đang hạn hán lại có mưa rơi, nàng giống như một điềm báo của sự hồi sinh - Người ta
hỏi nàng:
“sao nàng lại ở đây?”, “sao em lại ở đây?”, “sao con lại ở đây?”, “sao cô lại ở đây?”, “sao chị lại ở đây?”, nàng chỉ trả lời là: “Phạm”. Một lời như thế, nghĩa
là do phạm mà xuống. Có người lý giải chữ Phạm ấy là từ chữ Phạm-Thiên
(Brahma) mà ra, không đúng như vậy. Người ta
tưởng nàng họ Phạm nên gọi là Phạm nữ nhân - tức là người con gái họ Phạm, người gọi là Phạm thị - tức là cô họ Phạm, và cứ dần dần
người ta coi nàng là
họ Phạm. Họ Phạm chỉ có nghĩa là vì vi phạm một lỗi
mà ở đây, vì
chạm phải luật Trời mà ở đây. Bởi vì nàng đã thệ nguyện độ nhân cho nên nàng đã hết sức
thống khổ. Tương truyền câu chuyện là nàng có yêu một người tên là Đào Lang, Đào Lang nghĩa
là gì? Đào Lang không phải tên quả đào, mà là lang quân họ Đào, người ta nghe người ta tưởng là thế, đấy là điều mà nàng nói với người ta. Nhưng chữ “Đào” mà nàng nói đến là chỉ một
người đàn ông,
đúng là chỉ một người đàn ông. Nàng đi tìm người đã hứa với nàng sẽ ở nhân gian mà làm điều đấy, sẽ cùng ở nhân gian mà thay đổi chúng sinh.
Vào một ngày nọ, Quỳnh Nga công chúa vô cùng xinh đẹp ở trong
cung điện, gọi là cung
điện Quỳnh, Quỳnh điện. Lúc đấy nàng đang nhìn xuống dưới nhân gian, bởi vì nàng thích thú nhân gian vô
cùng, bởi vì người con gái út mang theo những năng lực thật diệu kì. Nàng nhìn xuống dưới nhân gian, như một nữ thần của Thiên Đình, nàng vô cùng quan tâm
đến chuyện là dưới nhân gian mọi người
phụng sự Thiên Đình
ra sao, và nàng vô cùng phẫn nộ với chuyện ở trong nhân gian không còn Đạo lí, không còn tôn Thần, bắt đầu tín các ngoại Thần, bắt
đầu thay đổi những thái độ, bắt đầu trục trặc, bắt đầu bấn loạn. Nàng vô cùng tức giận và nàng liền nghĩ ra một cách rất dữ dội để trả thù nhân gian, đấy là cử những Ôn Thần xuống, yêu cầu Ôn Thần xuống
nhân gian
mà tạo ra bệnh dịch cho loài người, khiến cho loài người phải tôn thờ.
Trong
lúc nàng đang nghĩ không biết dùng Ôn Thần nào, nàng liền từ trên Thiên Đình - bởi vì Thiên Đình là chí cao trong
Tiên Giới - nàng phát thiệp mời các Ôn Thần đến nơi. Trong đấy có một người rõ ràng không phải là Ôn Thần nhận được thiệp của nàng. Người đấy đến, trông mặt mày rất hung
dữ, hai mắt sáng như
sao, thân mắt lúc xanh lúc đỏ. Đây là một trong những người đến sớm
đầu tiên, một loạt các Ôn Thần trước nàng đều không đồng ý bởi vì họ quá tàn nhẫn, họ quá tàn ác, mục đích của họ chỉ là để gây họa, không phải để
phụng Thần, không phải để phụng sự Thiên Đình. Và khi họ vừa đến
đã yêu cầu một loạt yêu sách, trừng trị xong con người phải
cho họ một địa vị, cho họ một ngọn núi thiêng, cho họ một đảo
bồng lai, nên nàng
đều không ưa thích.
Mãi đến lúc một người – một vị thần nửa xanh nửa đỏ đến. Nàng hỏi là: “Ngươi có thể làm gì?
Sau đấy ngươi muốn gì trong khi làm việc đấy cho
Thiên
Đình?”. Vị ấy nói là:
“Ta không muốn gì, ta chỉ muốn nàng.” Quỳnh Nga công chúa thấy điều này hết sức kì lạ, nàng liền mỉm
cười nói:
“Ngươi rốt cục là muốn gì? Ta đang nói ngươi phụng sự cho Thiên Đình, nếu ngươi
muốn ta sẽ cho ngươi một núi bồng lai, cho ngươi một Tiên Đình, cho ngươi một nơi để
thờ phụng riêng
ngươi trong nhân gian, cho người nhân gian phải thờ
phụng ngươi. Ngươi muốn điều gì cứ nói với ta.” Bởi vì đối với Thiên Đình, được thờ phụng là một lẽ cao quí, có một ngọn núi bồng lai ở
trong Tiên Giới là một lẽ cao quí, đấy là Tiên nhân rồi, đã là Sơn Tiên rồi. Có một điểm ở
trong Thiên Đình
sẽ trở thành quan của Thiên Đình, vinh hoa không kể hết, như
thế cũng được coi là trong
Thiên Giới vô cùng oai phong, rất có quyền lực, có thể giúp đỡ cho Môn Phái của mình, không biết đâu mà kể xiết. Đối với trong Thiên Đình thì trong giới đấy vẫn
có quyền lực như thế, vẫn có uy lực như thế, địa vị là vẫn phân biệt như
thế.
Lúc đấy vị Thần kia vẫn lắc đầu: “Ta thật sự chỉ cần nàng”, xong rồi Quỳnh Nga công chúa mới hỏi: “Rốt cục ngươi cần
ta như thế nào?” Vị Thần liền vuốt râu mỉm cười: “Ta cần nàng khi mà ta xuống nhân gian thì nàng cũng phải xuống nhân gian, nàng chỉ cần đi tìm ta thôi, tìm thấy ta thì ta cho nàng trở về.” Rồi công chúa rất ngạc nhiên, liền hỏi là: “Tại sao ta
phải tìm
ngươi? Tại sao ngươi không thể tự làm những chuyện
này một mình? Không phải ngươi đang gặp ta đây sao, còn phải gặp ta làm điều gì nữa?” Điều
này nghe
thì giống như con người nói với nhau, nhưng thực chất không phải. Ở
trong lời nói của Quỳnh Nga công chúa là có Đạo lí thế này: “Tại sao ta
phải tìm
ngươi?”- bởi vì nàng là địa vị trên; “Tại sao ngươi không gặp ta ở đây mà lại cần
phải gặp ta ở dưới?”- ý nàng
nói là nàng chỉ phục vụ báo ứng, không phục vụ duyên nghiệp. Tại
sao phải gặp lại Vị Thần xanh đỏ? Vị Thần xanh đỏ là tạo ra duyên nghiệp ở trong
nhân
gian, mà nhờ thế lẽ báo ứng của Thiên Đình được thực
hiện, chỉ là như
thế thôi, trong lời của nàng có huyền cơ như vậy.
Dĩ
nhiên Vị Thần xanh đỏ vừa nghe nàng liền lập tức đã hiểu nàng rồi, Vị
Thần xanh đỏ mới hỏi nàng: “Nếu như nàng muốn thay đổi con người, sao nàng không tự làm, lại sai phái Ôn Thần làm? Không phải trong lúc đấy nàng đã biến thành một Ôn Thần đấy
sao? Bởi vì nàng
là chủ sự.” Đạo lí của lời Vị Thần xanh đỏ là gì? Là bởi vì ý niệm này xuất phát từ một ý niệm của
Quỳnh Nga công
chúa mà thành, một ý niệm của Quỳnh Nga công chúa muốn dùng Ôn Thần mà hành sự thì Quỳnh Nga công chúa chính là Ôn Thần. Cho nên bởi vì nàng đã muốn lấy Ôn Thần làm tay chân của nàng mà thực hiện ý định đấy, vậy thì hình ảnh của
Thiên Đình
sẽ là gì?
Chính là Ôn Thần, cho nên Thiên Đình vì ý định của nàng lại có thể trở nên là mối họa đối với con
người. Một khi đã bắt con người sợ Thiên Đình thì nghĩ thế nào đây? Con người sẽ coi Thiên Đình là một mối
họa, đã thờ cúng một mối họa tất sẽ sinh ra mê tín, không còn là tự nguyện nữa, ý của Vị Thần xanh đỏ huyền cơ là như vậy, không nên tạo nên nỗi sợ đấy.
Lúc đấy Quỳnh Nga công chúa, bởi vì nàng là người vô cùng thông minh, là người con gái út, là người kế thừa trí tuệ của Thiên Đình, nàng nghe đến đấy đã cảm thấy vấn đề rất lớn rồi. Nàng liền trầm tư
suy nghĩ, suy nghĩ mãi, lúc
đấy mới hỏi Vị Thần xanh đỏ: “Hay thay, nghiệp lực con người đã quá lớn.
Trời giáng họa có gì sai trái? Lại nữa, Ta xuống kia làm sao được?” Vị
Thần xanh đỏ nói: “Dễ lắm! Chỉ cần nàng đánh vỡ chén ngọc của Cha
nàng, mỗi chén ngọc của Cha nàng ở đấy đều tượng trưng cho
một mối liên kết với chư Thần, chỉ cần nàng đánh vỡ một mối liên kết thì cái nghiệp đấy không dồn vào nàng chẳng lẽ dồn
vào Cha
nàng? Chẳng lẽ Cha nàng phải xuống mà trả duyên nghiệp? Nhất định
nàng sẽ phải trả, bởi vì Cha nàng là muốn khiến
cho trong Tiên Giới, trong nhân gian, tất cả đều phải tôn trọng duyên nghiệp, tất cả
đều phải biết rằng xúc phạm đến Thiên Đình dẫu là người nhà Trời cũng
phải trả. Bởi vì Cha
nàng tự là người đặt ra những điều đấy, cho nên Cha nàng sẽ phải đảm bảo những điều đấy.” Quỳnh Nga công chúa gật đầu nói: “Ta có thể thử.”
Rồi nàng suy nghĩ một hồi lại hỏi: “Ngươi cũng xuống, ta cũng xuống.
Tại sao ngươi không
hành sự ở phía ngươi, ta không hành sự ở phía ta, mà tại sao ta còn phải cần đến ngươi nữa? Tại
sao ta còn phải tìm đến ngươi nữa?” Vị Thần xanh đỏ mỉm cười nói là: “Nếu như không có ta gây ra bệnh dịch thì làm sao nàng có thể chữa
được bệnh? Nếu không có
ta gây ra hạn hán thì nàng làm sao có thể sửa được hạn hán? Nàng ở đâu ta ở đấy, ta
ở đâu nàng
ở đấy, nhưng chỉ cần nàng muốn tìm ta nàng sẽ thấy.” – “Làm sao để ta nhớ được ngươi?”, Vị Thần xanh
đỏ liền nói:
“Đơn giản lắm!
Đơn giản lắm! Cứ gọi ta là Đào Lang.” Thực ra chữ Đào Lang có nghĩa là “chồng yêu”, Đào ở trong
chữ “đào
hoa”, ý chỉ là người có rất nhiều
vợ.
Lúc đấy khi Quỳnh Nga công chúa giáng thế thì ở dưới gót chân có ghi hai chữ “Đào Lang”, nàng đã định sẵn thế rồi, đánh vỡ cái chén đấy, ghi
hai chữ “Đào
Lang”. Cho nên lúc nàng đi khắp nhân gian, nàng đi đến đâu ban phép đến đấy, nhưng nàng chỉ cần hỏi một người – Đào Lang, “Đào Lang ở đâu?”,
chính vì thế mà nhiều người cho rằng nàng là nữ thần bảo vệ hạnh phúc gia đình, thực ra không phải vậy. Trong các chư Thần rất hiếm có người mang
họ: La Bình công
chúa, Đông Cuông thánh mẫu không hề mang họ,
Mẫu Thượng Ngàn
không mang họ, Thiên Y A Na không mang họ, Tản Viên Sơn Thánh không đích thực là mang họ cho dù về sau gán cho Ngài là họ Nguyễn. Mỗi người đều
giống như có một họ, chẳng ai có họ cả. Chử Đạo Tổ, có nghĩa là vị Đạo Tổ ở làng cát, nó chỉ có nghĩa thế thôi, không ai có họ cả. Nhưng bởi vì nàng mang họ Phạm, do
người ta tưởng nhầm, nên người ta tôn nàng lên thành nữ thần của dòng họ, nữ thần
của gia đình. Và
cũng chính vì thế, sau khi thành Thần nàng lại phải độ cho họ Phạm, vì họ ấy
đã thờ nàng rồi.
Nàng vẫn đang chờ tìm một người, khi nào nàng kết hôn được với Đào Lang đúng như duyên nghiệp đấy đã hoàn thành, đấy là duyên nghiệp tối hậu của nàng thì nàng mới trở lại
Thiên
Đình. Còn ngày nào mà nàng chưa gặp được Đào Lang thì nàng vẫn còn lang thang ở hạ giới. Vị Thần xanh đỏ rốt cục đã tạo nên một thứ duyên nghiệp, một
thứ duyên nghiệp sao cho nàng cứ đi tìm mãi mà không thành, một thứ duyên nghiệp của vợ chồng. Để có thứ duyên nghiệp đấy không phải chỉ
khắc một chữ lên chân
mà xong, lúc đấy Vị Thần xanh đỏ đã dùng Âm Dương giao khí phối kết với
Quỳnh Nga công
chúa mà tạo nên một sinh mệnh, nhờ sinh mệnh này tồn tại mới
trở thành tên
ở trên chân nàng, cũng phải có giao kết Âm Dương như vậy mới khiến cho nàng với Vị Thần xanh đỏ ở trong
nhân gian
mà tìm nhau, đấy là mấu chốt. Cho nên nàng cứ suốt đời đi tìm Vị Thần xanh đỏ, suốt đời đau đáu vì Vị Thần xanh đỏ. Khi nàng thành Thần rồi, nàng vẫn ôm một mối hận với Tiên Môn chính là vì thế.
Lại kể
chuyện xưa, Thái ông với Thái bà, thực ra tất nhiên không phải ai xa lạ mà chính là vợ chồng
của Vị Thần xanh đỏ, nên đã
nói họ tu Tiên. Người này đích thực là ai - Thái ông mà chúng ta nói đến đây, người mà nàng cứ đi tìm mãi, người này chính là Dương Tiên. Nhưng nàng không biết được điều đấy, bởi vì duyên nghiệp bản
chất là gì?
Duyên nghiệp bản chất là phải mập mờ, chúng ta không thấy rõ duyên nghiệp. Ở trong duyên nghiệp chúng ta còn kết hôn với cả kẻ thù, kết hôn với cả tà ma, kết hôn với cả yêu vật. Thần
Tiên cũng
có thể lấy yêu vật mà thành đôi, kết đôi kết lứa, chuyện này không có gì đáng ngạc nhiên. Có thể là trước có một giao
hẹn Âm
Dương giao khí, chính vì Âm Dương giao khí mà trở thành Cha con, cho dù vốn dĩ không phải là Cha con, ở trong nhân gian chính là mang duyên nghiệp như thế. Nhưng chúng ta có thể nói Dương Tiên là Vị Thần xanh
đỏ không?
Cũng không nhất định như thế, bởi vì đấy chỉ là một hình hài của ông, có thể đấy chỉ
là một Chân Thần của ông. Bởi vì khi đã xuống nhân gian, khi thật sự xuống
nhân
gian, đi theo bước Nguyệt Quang mà xuống nhân gian, ông đã buộc phải phân làm hai phần. Hai
phần này mỗi phần một duyên nghiệp: phần nghiệp ở trong Ý của ông - phần Âm trong Pháp lí của ông buộc phải gánh họa, phần Pháp thuật của ông - tức là phần Dương
của ông
cũng buộc phải gánh họa. Hai phần Âm Dương này khi đã xuống nhân gian rồi nhất
định sẽ tìm gặp nhau, bằng được sẽ tìm gặp nhau.
Tuổi của họ là như thế nào? Bởi vì Vị Thần xanh đỏ có một xuất xứ vô cùng kì dị, ông ta không chỉ là một người, ông ta là nhiều người, ông ta xuất hiện ở
cùng nhiều thời không khác nhau, cho nên ông ta đã giáng thế từ rất lâu, ông ta giáng thế từ lúc Nguyệt Quang xuất hiện. Khi ông ta giáng thế xong thì ông ta xuyên thời không trở về một
giai đoạn khác, bởi vì ông đã tu đến tầng Như Lai rồi. Chúng ta đã biết là Vị Thần xanh đỏ ở tầng Như Lai, công lực là ở tầng Đại Bồ Tát, cho nên khi giáng thế, đầu tiên là ông quay trở về một thời gian trước khi có Tiên Môn, xong cứ như thế, cứ như thế, dần dần mà hình thành Âm Dương Tiên – là
những người tu những Môn gần như liên quan đến Hỏa lại
không
liên quan đến Hỏa, liên quan đến Bạch Long mà lại không liên quan đến Bạch Long, có thể nói là ở trong
Bạch Long Môn, có
thể nói là ở trong Hỏa Môn, nhưng cũng không phải. Họ tự
khai tông lập phái riêng, trông cũng gần giống nhưng lại không phải, tất
nhiên ở trong đấy còn có duyên nghiệp, còn có sự gặp gỡ
với Tiên Môn,
còn có sự trao truyền các bộ Công Pháp, nhưng đấy là chuyện vô cùng phức tạp và sâu xa khác.
Chúng
ta quay trở lại, đôi vợ chồng đã đón Liễu Hạnh là vợ chồng của Dương Tiên. Ngay khi ra đời, nhìn thấy chữ Đào Lang ở dưới gót chân của Quỳnh
Nga công
chúa, của Liễu Hạnh, lúc đấy điều đầu tiên mà Dương Tiên làm đó là
“Chúng ta đi.” Nói xong Dương Tiên liền đặt đứa trẻ, sau khi tẩm
cho nó một số loại kì hoa dị thảo, giúp cho sinh mạng của nó dài lâu, không cần phải ăn uống trong một
thời gian dài, thả vào dòng
sông rồi cứ thế trôi. Cho nên việc làm đầu tiên của Mẫu
Liễu khi giáng
sinh là gì? Đi ngược theo dòng sông, cứ đi ngược theo dòng sông. Nơi đầu tiên mà bà dừng lại, đấy là một nơi rất đặc biệt, ngày nay chúng ta gọi là Phủ Dày, có
thể có người gọi là Phủ Vân Cát.
Nhưng ở đấy có một điểm đặc biệt, bởi vì kì hoa dị thảo mà Dương Tiên phủ vào người nàng cho nên nàng tỏa ra mùi hương rất kì lạ. Mùi hương này lan đến đâu thì người ta khỏi bệnh đến đấy, cho nên thôn mà nàng giáng thế được coi là Tiên Hương, mùi của người
Tiên lan
đến đâu nơi đấy trở nên khỏe mạnh, một mùi thấm nhập sâu vào trong tâm cảm. Chúng ta không thể gọi nó là mùi thơm thông thường, đấy là một mùi có thể khiến
cho người ta được chữa lành, rất đặc biệt, không thể định nghĩa bằng nhân gian được, không thể định
nghĩa bằng các từ “thơm” hoặc “sực nức” hoặc bất cứ từ nào của Dục
giới, không một từ nào trong Dục giới diễn tả được khi nàng xuất hiện
như thế.
Khi
nàng lớn lên, nàng chỉ xưng là nàng họ Phạm, rồi nàng cứ đi tìm như thế, đi đâu cũng hỏi “Đào Lang của ta ở đâu?”, “Đào Lang của ta ở đâu?” Người ta thấy nàng gần như điên loạn, cho dù nàng đầy phép thuật, cho dù nàng vô cùng xinh đẹp, không ai dám động đến nàng. Đến lúc có những truyền
thuyết về cô gái
Đèo Ngang, bởi vì nàng rất xinh đẹp cho nên thái tử họ Lê nào đấy – như
người ta nói -
tìm đến nàng, trêu chọc nàng xong rồi bị nàng làm cho trở nên điên
loạn, rồi người đấy trở về, rất nhiều những chuyện tương tự
như thế xảy ra, rất nhiều những huyền thoại như thế về nàng xảy ra. Tại
sao như thế? Bởi vì nàng
điên loạn, nhưng nàng lại có quyền năng, nàng không biết đâu là đâu, nàng ở trong một trạng thái gần giống
như khí công
thái, nàng thấy những điều ở không gian khác, nàng gặp các chư Thần, nàng nói chuyện một mình. Nhân gian mà nhìn nàng thì nghĩ thế nào? Nghĩ là người này bị điên rồi, nói chuyện với cây cỏ, nói chuyện với trời đất, lúc nào cũng đang huyên thuyên một điều gì đấy, lúc nào cũng đang thảng thốt, “Ta phải đi tìm Đào Lang”, “Ta phải đi tìm Đào Lang”, “Ta vốn đã gặp Đào Lang, Đào Lang sao lại bỏ ta?”
Nàng cứ như thế, cho đến lúc khoảng hai mươi tuổi, nàng cứ lang
thang ở sóng gió
như thế cho đến lúc nàng hai mươi tuổi, nàng gặp một nhân vật vô cùng quan trọng. Nàng gặp Âm
Tiên. Khi nàng gặp Âm Tiên
thì điều đầu tiên nàng nhìn thấy ở Âm Tiên là có một điều gì đấy mà nàng coi như là Ôn Thần, nàng cảm thấy vô cùng căm ghét người này. Nàng không hiểu một nỗi căm ghét từ sâu thẳm của nàng, tại sao căm
ghét như
thế? Là bởi vì khi ở trên Thiên Đình, phần tiếp xúc với nàng là phần Dương
của Vị Thần xanh đỏ và phần không tiếp xúc với nàng là phần Âm của Vị Thần xanh đỏ. Phần Âm của Vị Thần
xanh đỏ thì viễn li với nàng bởi vì cao quí hơn, phần Dương của Vị Thần xanh đỏ thì lại là một phần
biểu lộ ra để tiếp xúc với nàng cho nên gần gũi hơn. Nên khi nàng giáng thế, nàng sẽ giáng thế vào chỗ mà Dương Tiên ở, còn khi nàng cảm thấy căm ghét nhất chính là lúc Âm Tiên xuất hiện, bởi vì Pháp lí của nàng là xa rời. Cũng giống như các vị phụng sự của một
vị Thần vậy, người
phụng sự này
không nhất thiết là hoàn toàn đồng hợp
với vị Thần này, mà
chỉ tiếp xúc với phần Dương của vị Thần này thôi, cho nên gắn bó về phần
Dương mà viễn li về phần Âm, luôn luôn căm ghét vị Thần này từ một khía cạnh nhưng
luôn luôn
yêu thương vị Thần này từ một khía cạnh khác, đấy là một cảm giác rất mâu thuẫn. Luôn luôn cảm thấy áp lực và sợ hãi nhưng luôn luôn cảm thấy yêu thương và muốn gần, đấy là một động
lực ở bên
trong. Luôn luôn xấu hổ trước phần Âm, nhưng luôn luôn tự hào trước phần
Dương. Một cảm xúc kép
rất mâu thuẫn.
Khi
nàng gặp Âm
Tiên, đấy là ở một nơi rất xa xôi mà chúng ta ngày nay gọi là thôn Ý Yên, một vùng được gọi là Ý Yên ở Nam Định. Ý Yên tức là đến nơi đây đã phải định
rồi, mọi thứ phải lắng xuống rồi. Năm ấy nàng hai mươi tuổi, đôi mươi, đẹp đẽ vô cùng, đối với mọi
người là điên
loạn, là quyền năng, là gì cũng được. Khi
gặp được Âm
Tiên, nàng cảm giác vô cùng chối, vô cùng đau khổ, vô cùng ghét bỏ. Lúc đấy Âm Tiên
đứng trên một ngọn đồi, một cái doi đất nhỏ ở giữa sông dâng lên, chúng ta có thể gọi là đồi. Ánh mắt Âm Tiên
sáng quắc, thân hình mảnh khảnh, giọng nói vang như chuông ngân, khiến cho nàng vô cùng khó chịu. Nàng chỉ vào Âm
Tiên nói: “Ta đã làm gì ngươi vậy? Mà ngươi đã làm gì ta vậy?” Âm Tiên mỉm cười nói: “Ta không làm gì ngươi, ngươi cũng không làm
gì ta cả. Ngươi với ta vô duyên vô phận, vốn không liên kết gì với nhau,
bất tất phải lên tiếng.” Rồi lúc đấy nàng vẫn không chịu được, nàng đi quanh ngọn đồi, dân chúng cũng theo đấy kéo đến, thấy nàng cứ đi
quanh, đi quanh ngọn đồi, lại thấy một người ở trên ngọn đồi kia. Dân chúng lại cho
rằng đây là một cặp thầy trò, có người thì coi là thầy trò, có người thì coi là dâm loạn, người
ta xì xào
tiếng ra tiếng vào càng làm nàng điên tiết. Nàng phất tay,
mười người lăn ra gào
thét, tất cả dân chúng sợ hãi bỏ đi, ai
cũng vô cùng
sợ hãi. Rồi lúc đấy mọi người trong lòng đã sợ hãi thì sinh ra mê tín, đấy chính là điều khiến cho về sau người ta luôn luôn có một nỗi sợ hãi vào nàng.
Âm Tiên
nhìn, cười nhạt nói là: “Ngươi đừng dùng máu làm ô uế chuyện tu luyện của ta, ta ở đây để đón một người.”
Rồi lúc đấy nàng vẫn không chịu đựng được, nàng nói là: “Ta không chịu được
ngươi, ngươi nhất định phải rời đi! Ta không thấy ngươi thì thôi, thấy ngươi
nhất định ta phải giết!” Lúc đấy nàng gần như hung cuồng, nàng chạy lên trên ngọn đồi, càng chạy lên, bước chân của nàng gần như bên dưới có bông sen bốc lửa. Lúc đấy Âm Tiên
lạnh lùng cười nhạt nói: “Ai đã truyền công cho ngươi từ bé vậy?” Nàng nói là: “Ta không biết. Nhưng ngươi là ai vậy? Ta vô cùng khó chịu với ngươi!” Rồi Âm Tiên bay xuống như
một ngọn gió, thân
hình lơ lửng trong không trung, Âm Tiên chạm vào đầu nàng rồi nói: “Người này truyền cho
ngươi Linh
Hỏa Đại Liên Công. Người này có thể vì ngươi mà làm điều này, có thể thật là thân thế không nhỏ, tại sao
ngươi nói là
không biết? Ngươi ở trong Tiên Môn mà ra, tại sao lại
chối bỏ Tiên
Môn?” Lúc đấy Quỳnh Nga công chúa càng trở nên điên loạn, nàng hét lên: “Ta không biết ai cả! Ta không biết ngươi là ai! Ta không biết cha ta là ai, mẹ ta là ai, ta chỉ biết ta sống giữa trời đất, sống cùng trời đất, ta
nhất định phải sống cùng trời đất. Còn ngươi, tại sao ta gặp ngươi lại ghét bỏ đến vậy,
ngươi là tà ma
hay là yêu quái?” Bàn tay của Âm Tiên càng siết chặt vào đầu nàng, nàng cảm thấy đau đớn vô cùng, rồi trên trán nàng nhỏ ra một giọt máu, chảy xuống, máu chảy đến đâu thì da thịt nàng như bốc lửa đến đấy, rồi một lúc sau bàn tay của Âm Tiên
ấn chặt vào, Âm Tiên nói là: “Ngươi bất tất phải hỗn láo với ta, ta
dường như đã biết ngươi là ai. Nhưng ngươi chỉ vì một niệm
muốn vinh danh, chỉ vì một niệm muốn dương danh, ngươi đã ở đây, vì một niệm
muốn dương danh, ngươi đã phạm sai lầm, vì một niệm muốn dương danh,
ngươi trở nên điên
loạn, vì một niệm muốn dương danh, ngươi không quay trở về được. Ngươi vì danh mà ở đây, thì ngươi tất gì ở đây nữa, lụi tàn đi cho ta cũng được.” Nói xong Âm Tiên ấn bàn tay xuống thật mạnh, cái cổ của nàng kêu “rắc” một cái, dường như đã gãy cổ, nhưng nàng không chết, nàng lại ấn bàn tay vào đầu nàng, cổ nàng lại chỉnh
lại như cũ, nàng lại đứng lên nhìn Âm Tiên nói: “Ta không chết được,
nhưng ngươi nhất định phải chết, ta nhất định phải giết ngươi!” Nói xong nàng lao đến, trong bàn tay nàng xuất hiện
một tia lửa màu đỏ, rồi tia lửa này càng nhân rộng ra giống
như một mũi dao đâm thẳng vào người Âm
Tiên, nhưng vừa chạm đến gần thân Âm Tiên thì mũi dao này biến mất, nàng lại điên loạn đâm vào, phía tay kia của nàng cũng xuất hiện một lưỡi dao tương tự, nàng lại đâm đến Âm Tiên, nhưng Âm Tiên cũng chỉ đứng đấy, rồi nàng cứ điên loạn đâm liên tục vào người Âm Tiên cho đến lúc nàng giống như một bóng máu, tất cả thân thể nàng cháy bừng như
một ngọn lửa, nàng lao
vào người Âm Tiên
và lụi tắt. Nơi mà tro tàn của nàng rơi xuống mọc lên một bông sen, bông sen ấy cứ nở, nở, nở ra, lớn lên, phát ra ánh thất tinh. Âm Tiên nhìn bông sen đấy thở dài rồi nói một mình: “Ngươi nhất định lại tái sinh, ngươi tái sinh lần thứ hai
sẽ có lí
trí hơn, lúc đấy ngươi sẽ biết phải tìm ai”, nói xong Âm Tiên rời đi mất.
Rồi chỉ vài ngày
sau, ở làng bên
cạnh lại có một đứa trẻ được ra đời, lần này ở trên chân nó cũng có một chữ: “Đào Lang”.
Vòng
quay của một chư Thần là như thế, họ không nhất định
sống, không nhất định chết, sống chết không có nghĩa với họ, dù ở trong
nơi nào, Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới, họ đều có vòng quay sinh mệnh của mình, không ai cản được họ sống, bởi vì đối với nhân gian, họ là bất tử, bất
diệt, không ai
trừ tuyệt được. Tất nhiên Âm Tiên cũng không có ý trừ tuyệt nàng, nhưng chính là muốn nàng tái sinh một lần nữa trong một lí trí. Tại sao Âm Tiên lại muốn nàng tái sinh, tại sao Âm Tiên lại cần phải triệt tiêu năng lực của nàng một lần
nữa? Là để một là nàng không mang nợ với Hỏa Môn mà lại phụ bạc
Hỏa Môn, hai
là nàng có thể sinh ra trong một gia đình mà trong đấy nàng có một lí trí, nhờ lí trí này nàng sẽ không phủ nhận sự tồn tại đích thực của mình, nàng sẽ không phủ nhận sự tồn tại của nhân gian, nàng bắt đầu có thể giao
tiếp với nhân
gian.
Lần thứ hai này nàng lại giáng sinh một lần nữa
ở chính ngay
phủ Tiên Hương, lần này mùi thơm của nàng bay xa muôn dặm, một lần nữa người ta lại biết đến nàng, và khi người ta nhìn thấy chữ “Đào Lang” dưới chân, người ta nghĩ ngay đến người đàn bà luôn luôn gọi “Đào Lang, Đào Lang của ta đâu?”, và lần này người ta biết
rằng nàng là
Thần Tiên từ trên trời xuống.
Muốn sống bình thường thì phải quên, nàng càng trở nên bình thường thì nàng càng phải quên nhiều. Lần thứ hai tái sinh ở nhân gian, với tất cả
những duyên nghiệp mà nàng đã từng chữa trị cho nhân gian, nàng mê mờ hơn một
mức, nàng
không còn nhớ được tất cả những chuyện trước đấy, nàng không nghe thấy được trời nói, không nghe thấy được
đất nói,
không nghe được tiếng từ không gian khác, nàng chỉ còn một chút quyền năng,
một chút quyền năng có thể kiến tạo mọi thứ. Nàng lớn lên cũng rất xinh
đẹp, và nàng
cứ âm thầm có một tiếng gọi trong đầu: “Đào Lang”. Nàng biết ở chân nàng có chữ “Đào Lang”, nàng thường nói: “Ta sống để chờ
Đào
Lang.” Cho nên trong lúc sống để chờ Đào Lang, nàng làm gì bây giờ? Nàng không lấy chồng được. Cha mẹ nàng sẽ mất rất
sớm, bởi vì khi
nàng xuất hiện ở đấy, một thời gian sau họ đã thác rồi. Việc nàng có thể làm, bởi vì đàn ông rất mê nàng, cho nên nàng nói gì trai làng đều nghe
cả, nàng đi
đến đâu đều có người phụng sự, các Đền Chùa Miếu Mạo,
tăng nhân đều mê đắm nàng, nàng có một vẻ đẹp gần như không ai có thể từ chối được, ở nàng có một điều gì đấy, chữ “Đào Lang” có một điều gì đấy giống như tự nó có sức hút, tự nó vô cùng quyền lực.
Thế là nàng
liền bắt đầu đi dựng làng lập xóm, nàng đi sửa đình sửa chùa, nàng lập nên rất nhiều nơi nguy nga, rất
nhiều nơi thánh khiết, nàng đến đâu thì nơi đấy được tôn tạo lại một lần nữa. Nàng làm những sự vụ
cho Thần, và nàng
càng làm, tất cả những vùng đất nàng đi qua càng tịnh đạt, dân chúng thờ phụng, tiếng lành đồn xa,
thậm chí tiếng của nàng đã đến tận nơi phồn hoa đô thị, lúc đấy nàng trở nên một mối
họa. Người ta bắt đầu đồn đại về nàng như một người phụ nữ đã lãnh đạo hết
thảy lực lượng tôn
giáo, lực lượng quân sự, những lực lượng tinh hoa
của nông
thôn, giống như một thủ lĩnh mới, tập hợp trong tay rất nhiều
quyền lực, dân
chúng không nghe triều đình nữa, nhắc đến tên nàng ai cũng sợ hãi. Bản thân nàng dường như có một điều gì đấy, một
điều gì nàng
cố quên nhưng vẫn xuất hiện: bản chất của một thủ lĩnh, bản chất
của một người có thể dẫn dắt cả một cộng đồng to lớn. Cho nên nàng bắt đầu tập
hợp dân
chúng, nàng bắt đầu dạy họ thêu thùa, dạy họ lập làng xã, dạy họ cách sống, dạy
họ cách
liên hợp với nhau, dạy họ cách đào giếng thật sự, dạy họ cách để tạo nên những cuộc
sống phồn hoa sung túc hơn,
dạy họ cách tạo nên những cuộc sống mà họ không cần phải
dựa vào những quan chức kia, những bầy tôi đô thị, các thương nhân, họ có thể tạo thành những cộng đồng nhỏ, họ cứ nhân lên, nhân lên như thế không ngừng. Họ từ
chối triều đình, họ không đáp trả lại triều đình, họ từ chối nộp thuế cho triều
đình. Tất cả những điều đấy khiến cho nàng ngày càng thành một mối đe dọa, và như
thế những
người mang nhân tâm trong triều muốn khống chế, thậm chí trừ
diệt nàng.
Lần này thì triều đình nhờ đến một Đạo sĩ lúc đấy đã rất nổi
tiếng ở kinh thành,
người Đạo sĩ này chính là Âm Tiên.
Cho nên
nói nàng vì Vị Thần xanh đỏ mà ở nhân gian, chính là bởi vì Vị Thần xanh đỏ nên cứ ở mãi nhân gian. Phần cần gặp thì không thể gặp, phần không cần gặp
nhất định phải gặp, chính là duyên
nghiệp như thế. Nhưng người ta không chịu đủ nạn
thì nhất định không cứu được người, không chịu đủ nạn
thì nhất định không cứu được đời, không chịu đủ nạn
nhất định không có
đủ năng lực thực hiện Sứ Mệnh. Lần thứ nhất thì nàng giống như
trong khí công
thái, điên loạn không biết gì, chỉ biết nói chuyện với Trời Đất, đi tìm những người mà mình cần tìm. Lần thứ hai
nàng có
lí trí hơn, đã biết tạo nên những cộng đồng, nhưng chưa biết cách điều hòa với nhân gian, để nhân gian buộc phải công kích nàng. Nhân gian bảo vệ những trật tự của mình, bảo vệ những điều đang diễn
ra một cách
bình thường, để không tạo nên những thế
lực của người tu mà gần như là con người ở nhân gian, không nên để có một sự tồn
tại như thế can nhiễu vào sự tồn tại của xã hội, nhân gian đã triệu đến một sức mạnh khác, đấy chính là Âm Tiên.
Ông ta
lại đến một lần nữa. Lần này ông ta cũng biết nàng là ai, bởi vì ông ta vẫn nhớ nàng là ai, ông ta vẫn biết nàng cần gặp Đào Lang. Ông ta chỉ hỏi nàng: “Ngươi có muốn sống nữa không?” Rồi nàng trả lời: “Ta có thể sống, ta có thể chết.” Rồi ông ta hỏi tiếp:
“Ngươi muốn gì? Nếu ta giết ngươi, ngươi sẽ muốn gì?” Rồi nàng trả lời là: “Ta chỉ muốn tìm Đào Lang. Ta chỉ muốn các con của ta được lớn lên. Ta chỉ muốn làng xóm này trở nên xanh
tươi. Ta chỉ muốn nhân gian này phụng Thần. Ta còn muốn mọi người đều biết đến
Thiên
Đình, đều biết là Thiên Đình tồn tại, đều có ý niệm là trên Trời còn có Vua Cha, còn có chư Thần, ta muốn mọi người đều biết.” Rồi Âm Tiên nói: “Nếu như ngươi chết đi, ta có thể giúp mọi người ở
đây biết được điều đấy.” Rồi nàng nói: “Ta không chết, ta
cũng không sống. Ngươi không thể giết ta được, ta đã chết, ta lại
sống một lần nữa. Ngươi giết chết ta một lần nữa, ta lại sống một lần nữa.
Ngươi có giết chết ta bảy bảy bốn chín lần ta vẫn tiếp tục tái sinh, bởi vì ta ở đây vì các con ta, ta ở đây để khiến cho chúng sinh này phụng Thần,
có thể tôn trọng Thiên Đình, cho nên ngươi không thể giết ta được.” Rồi nàng tiến về phía Âm Tiên, nàng cất tiếng: “Ta không hề có tu học, nhưng
ta biết ngươi pháp lực Thông Thần, ta biết ngươi giáng bàn tay có thể khiến
cho ta chết, nhưng những người ở đây vì tin ta mà tin Thần, vì tin Thần mà tin ta. Những người ở đây vì ta mà đi lên, vì ta mà phục dựng Đền Chùa Miếu Mạo, vì ta mà xây dựng nên những Đình Quán. Ngươi nói xem, nếu ngươi giết ta, ngươi có thể giết đi
tinh thần của họ không? Nếu như họ còn tôn trọng Đình Quán, còn tôn trọng Thần, thì ta không bao giờ chết cả,
tinh thần của họ còn gọi tên ta thì ta sẽ ở đây một lần nữa.”
Rồi Âm Tiên tiến về phía nàng mỉm cười nói: “Ngươi biết thế là tốt, có điều ngươi ở đây một lần nữa cũng chưa biết
được lí lẽ của mình phải làm, ta lại phải tiễn ngươi một đoạn nữa vậy.” Nói xong Âm Tiên liền phất bàn tay, từ trong bàn tay của ông một ánh sáng thất sát giống như một tia sáng lóe lên, thì nàng đã đầu rơi
khỏi cổ, ngã vật xuống. Thân nàng ngã đến đấy thì biến thành một hòn đá rất to, hòn đá này lớn lên như một tảng núi, một ngày một đêm sau đã biến thành một tảng núi lớn, và từ tảng núi này, ở trên đỉnh ngọn núi lại mọc ra
một bông hoa
thất sắc, bảy ngày thì nó tàn. Tàn xong thì ở trong
Thanh Hóa lại có một đứa trẻ ra đời, trên chân nó lại có chữ: “Đào Lang”.
Lần thứ ba nàng giáng thế vẫn hết
sức quyền năng. Nàng
sinh ra trong một gia đình người tu, những người này là môn nhân của Hỏa Môn. Khi nàng ra đời xong thì nàng được học hành từ Hỏa Môn từ bé, đến lúc Hỏa Môn bị tà ma tiêu diệt, tất cả tứ tán, nàng cũng ra khỏi Hỏa Môn, vẫn mang
theo Hỏa Công,
nàng vẫn luyện Hỏa Công, có điều không phải Hỏa Công mà về sau Hỏa
Công còn
lưu giữ, bởi vì nàng chỉ là một nhánh ở trong
đấy. Hỏa Môn chia
ra làm 9 nhánh, có 9 bài Hỏa Công khác nhau, về sau co làm 5 nhánh, nàng ở trong các nhánh chính. Nhưng Môn của nàng, nàng gần như là người kế thừa cuối cùng. Dần dần từ
Thanh Hóa nàng
bắt đầu gặp gỡ rất nhiều chư Thần chư Tiên, và bởi vì nàng đã sinh ra trong một gia đình loạn lạc của người tu, cho nên nàng hiểu được cái đau đớn của
người tu, nàng hiểu được chỗ ở trong cõi đời này, ở chỗ lòng dạ con
người không nhất định có thể giúp được người tu, ở những giới hạn của tu luyện không thể bộc lộ các phép thuật trước mặt người thường, khi gặp người thường tự nhiên sẽ bị cấm
khóa, rằng mỗi không gian, mỗi trường thời gian đều có những người
bảo vệ, nàng biết rằng không thể xâm phạm những
điều đấy. Nàng gặp được rất nhiều Thần Tiên ở Thanh Hóa, nàng gặp được
rất nhiều người tu ở các Phái
khác nhau, từ đấy nàng bắt đầu có tri thức. Nàng bắt đầu hiểu được về Thiên Đình, nàng bắt đầu
hiểu được rõ lẽ của từng Phái, biết được cách phân biệt con người tốt – xấu, biết được trước – sau, đúng – sai, phải – trái, nàng
ngày càng hiểu ra điều đấy. Nàng càng biết rằng Đào Lang mà nàng tìm không hẳn là Đào Lang, nàng biết đấy là người cần tìm, nhưng nàng lại không biết là tìm vì gì, tất nhiên nàng đi đâu cũng vẫn cứ hỏi:
“Đào Lang
của ta đâu?” Rồi nàng cũng biết điều đấy nhưng nàng dần dần tỉnh táo hơn.
Nhưng
cho đến một lúc, điều mà nàng làm được là một điều vĩ đại hơn, nàng tập hợp được
trong tay một lực lượng Linh Thần to lớn. Các Thần núi sông, ba mươi sáu động, bảy mươi hai huyệt, tất cả những Thần Linh sông núi khi gặp nàng đều tỏ ý quy phục, tất cả các yêu quái địa phương,
tất cả đều tụ tập lại, và từ lúc này
nàng bắt đầu thách thức một lực lượng, một lực lượng đã nổi lên từ trước,
đấy là các
Phái của Đạo gia, và đặc biệt là việc mà nàng thống trị ở
Thanh Hóa đã tạo nên một sự việc vô cùng khẩn yếu, đấy là nàng được trợ lực
của một người. Người này đã đến với nàng và đã hứa là sẽ cùng nàng xây dựng mọi thứ, xây dựng mọi thứ để bảo vệ non sông này, bởi vì người ấy nói với nàng là: “Đất theo
Trời”, và người ấy nói với nàng: “Bởi vì Đất theo Trời, cho nên tôi có thể phụng vụ
bà, chỉ cần bà bảo vệ non sông này khiến cho nó luôn luôn hàn gắn, khiến cho nó vĩnh viễn là một.” Đấy
chính là
Bạch Vân Cư Sĩ. Hai người gặp nhau ở Thanh Hóa.
Khi Bạch Vân Cư Sĩ đến gặp nàng rồi, họ bắt đầu triển khai
một việc vô cùng
rộng lớn. Họ bắt đầu liên kết với tất cả các Sơn Thần ở vùng núi Ninh Bình, Thanh Hóa,
Nam Định, đấy là những mạch núi chính, từ vùng này
họ bắt đầu kiểm soát và đối sánh với các thế lực của
các Phái
dưới Tản Viên Sơn Thánh, tức là một Phái khác của Hỏa Môn - Bạch Môn, một
trong những phái Tiên
Môn lúc đấy, về căn bản có hai đại Môn Phái nổi lên là như thế.
Sông
núi rút cục là theo Trời, thực ra ý nói là gì? Khi được tạo ra
thì sông
núi là do Thiên Ý mà tạo ra, trong đấy có một loại Linh khí vô cùng to lớn, theo sự tu luyện của các Thần Tiên mà các Linh khí này được bảo dưỡng hoặc không, và cũng theo ý chí của các Thần Tiên to lớn mà các mạch Linh
khí này
có thể dời đổi, và đôi lúc các mạch Linh
khí này
cũng cạnh tranh nhau nữa. Cho nên nói là trong tứ đại Linh
mạch thì cũng
có cả Thần Long, Ác Hổ, Phượng Hoàng, Long Quy, đều có đủ cả. Linh khí mạch nào sẽ phát, sẽ điều
chuyển toàn bộ nhân gian theo hướng đấy, nhân gian theo hướng nào sự thờ phụng sẽ đổi thay theo hướng đấy, sự đối ứng sẽ đổi
thay theo hướng đấy, và rất nhiều an bài sẽ đổi thay theo hướng đấy.
Cho nên
lúc đấy, cùng với sự trợ giúp của Bạch Vân Cư Sĩ, họ đã liên
minh được cả một lực lượng các Thần sông, Thần núi cực kì mạnh mẽ,
cấu thành một bộ phận mạnh mẽ để yêu cầu trục xuất tất cả những Phái ngoại tu -
tức là những phái tu xuất phát từ bên
Trung Quốc, không thuộc về Địa Thần xứ này, không thuộc về các Linh mạch của xứ
này. Bởi vì họ coi Linh mạch của xứ này là ở đâu? Họ coi Linh
mạch của xứ này là từ Thần Sơn mà xuống, cho nên điều họ làm ở đây là bảo vệ Thần
Sơn, và họ sẽ chống lại tất cả các phái nào xuất phát từ bên Phúc Kiến, từ bên Trung Hoa, tức là đến từ các vùng trung nguyên rộng lớn, vốn không liên quan đến việc bảo vệ ở đây. Họ sẽ trục xuất ra khỏi những
ngọn núi này,
họ yêu cầu trả những ngọn núi lại cho các Sơn Thần, cho
những người tu của Phái họ, đúng hơn là cho những người tu ở xứ này, những người
được sinh ra với nhiệm vụ bảo vệ xứ này. Và đấy là một cuộc
chiến vô cùng
to lớn đã diễn ra giữa họ, với một người đứng đầu của những Phái Tiên Môn còn sót lại, một Phái Tiên Môn chủ trương là Tiên Môn không được can thiệp vào bên trong chuyện này, và người đứng
đầu của Tiên Môn
còn sót lại vào lúc đấy, vào lúc mà họ nổi lên đấy, là Tiền Quán Thánh, có trong tay ba đại đệ tử còn rất bé nhỏ.
Cuộc chiến chỉ diễn ra trong vỏn vẹn một năm. Nó đã làm thay đổi toàn bộ Linh mạch ở xứ đấy, nó đã gây ra vô cùng nhiều điều
tang thương. Cuộc chiến trong việc Tiên Môn cố gắng ngăn cản Liễu Hạnh và sau đấy Liễu
Hạnh đã kết hợp với cả hai Mẫu nữa để tiến hành cuộc chiến
của Nội Đạo Tràng. Cuộc chiến của các trường Nội Đạo Tràng ở đây có bao một nghĩa rộng hơn, là cuộc chiến của các trường phái tu Tiên trong nội bộ một quốc gia. Người thường về căn bản không được biết
đến, họ chỉ nghe được lõm bõm
bản thể của câu chuyện này. Câu chuyện này là của Tiên Môn chống lại chính những người mà Tiên Môn coi là phản đồ, tức là những người muốn dùng Tiên Môn để can thiệp vào sự vụ nhân gian.
Vị Thần
xanh đỏ xuyên suốt mọi câu chuyện. Nhưng điều quan trọng là Vị Thần xanh đỏ không chỉ là một, vị ấy
đạt đến tầng Như Lai nên phải nói là thiên biến vạn hóa. Vị ấy có thể là một niệm
của một Vị lớn hơn, như đã kể ở trong Phù Vân. Ngài là một vị Thần quyền năng, Pháp lực của Ngài vô cùng to lớn, năng lượng này lập tức tổ
hợp các ý
niệm của NGài thành
hình dạng tương
tự như Ngài, và thực hiện những việc Ngài muốn, với một trí tuệ tương
đương với trí tuệ của
Ngài. Cho nên, khi một vị Thần có Pháp lực đến tầng Như Lai động một
niệm thì ở đâu họ cũng xuất hiện, cho nên Như Lai ở khắp tất cả mọi nơi, đấy là điều rất
nhiều người đã trải nghiệm. Ngài ở khắp nơi.
Âm Tiên
và Dương Tiên đều là những Trưởng lão của giới tu Tiên, vô cùng uy tín. Pháp lực của họ gần như Thông Thần, đến nỗi người ta còn không biết Môn Phái của họ từ đâu mà ra, chỉ có những Thần
Tiên bậc nhất mới có thể gặp họ và nói chuyện với họ,
trừ khi họ tỏ lộ mình cho
người, người ta nhất định không gặp được họ. Cho nên lúc mà những mâu thuẫn đến đỉnh cao, việc Bạch Vân Cư Sĩ dám liên minh với các thế lực khác để diệt trừ Âm Tiên, đấy là một chuyện
gần như không tưởng, vô cùng liều lĩnh. Nhưng chúng ta cũng biết, duyên nghiệp trùng trùng, khó nói ai là ai, ai
vì ai, rồi mỗi người có một Thiên Mệnh, Thiên Mệnh đấy
thậm chí có thể va đập với nhau, ai biết được? Chúng ta ở đây đều vì Sứ Mệnh, đúng không? Sự việc là thế.
Có một khoảng thời gian Liễu Hạnh đã đi học với
Quan Âm, đấy là một khoảng thời gian sau khi bà ấy bị
trọng thương bởi các lực lượng của Tiền Quán Thánh. Nó kéo dài trong khoảng một đến hai năm, lúc ấy nàng thọ giáo Phật Pháp và bắt đầu lấy
được Pháp danh
là Liễu Hạnh.
Lúc Liễu Hạnh đến động tìm La Bình Công Chúa là trong giai đoạn lần thứ ba. Khi nàng gặp các Thần Tiên, lúc đấy nàng đã tụ tập các nhân tố Nữ Thần
của các nơi
nàng gặp để liên minh tạo nên các sự thống nhất của các mạch núi sông. Họ đã gặp nhau ở
Thanh Hóa.
Từ đó
lại mở ra vô số Tiên sự về sau.