Dâng hiến đời mình cho Thần là một yếu quyết tu Mệnh cổ. Vì trong thời cổ, toàn bộ Thân Tâm Trí đều nhằm dâng lên để hòa nhập với Vũ Trụ, Thần Thánh, Linh Thiêng.
Đôi bàn tay làm nên vật dụng để dâng sự sống cho Thần nhờ đó sự sống con người được ban ơn. Thân thể vận hành trong trang nghiêm cẩn mật như thể ánh mắt của Thần luôn dõi theo, nghỉ ngơi theo những nhịp lễ hội của Thần, lao động trong những điều kiện khắc nghiệt để vinh danh tinh thần của những Đấng Vĩ đại. Tâm Trí luôn có chân đích đặt dưới ý chí và sự sai bảo của Thần: đó là cội nguồn của sự tồn tại đích thực, hài hòa trong một Vũ trụ và trở thành một phần của Vũ trụ. Chính trong sự hài hòa thấm nhập này, cái ánh sáng khai mở tràn ngập sinh mệnh và mang đến những Tri thức vĩ đại, mà người sau gọi là Tri thức Thần truyền. Mối quan hệ giữa Tri thức Thần truyền và Thân Tâm Trí được gọi là Mật Truyền - những kẻ giả tạo không phụng sự Thần chỉ nhìn thấy lớp vỏ rời rạc, không thấy được ánh sáng Mật Truyền. Chúng có thể tiếp tục cất cao lời về Tri thức của Thần, về Tâm Trí, về Thân thể, nhưng chúng thật như kẻ mù điếc, lời nói ra chỉ có thể đánh lừa những ai cũng mù điếc như chúng.
Khi những cánh cửa sinh mệnh không còn mở ra để nối thông với Vũ trụ thì chỉ còn lại Tri Thức Thần Truyền, mà suốt một thời kì lịch sử dài lâu là chìa khóa duy nhất hòng mở lại sự kết nối này. Tri thức Thần truyền là mảnh vàng ròng văng ra từ một Thiên quốc thánh sạch, là nước mắt của chư Thần, đây là cội nguồn của cảm thức về nước mắt, rằng nước mắt là gột rửa, là sự thánh sạch, là sự biện minh cho điều tốt đẹp, sự biện minh sau cùng, vô ngôn.
Nhưng đã có hẳn những người bảo vệ Tri thức Thần truyền khỏi bị ô uế và lạm dụng bởi những kẻ háo danh, điên loạn, cực đoan. Họ biết rằng, ngay từ sự khởi sinh của họ, Thân thể đã ô uế không có năng lực tiếp nhận Thần tính, bởi vậy họ gợi ý một dạng thức kết hợp thuần túy hơn: một vật dụng được tạo dựng theo Tri thức Thần truyền, nhờ đó không bị ô uế mà ngay từ đầu đã được rửa sạch. Thần-khí (Công cụ mang Thần tính) này có thể chỉ đạo con người thấy được ánh sáng đích thực của Mặt Trời, nghe được âm thanh đích thực của Vũ Trụ, và phụng sự Ý Chí đích thực của Thần Thánh. Volvelle là một nỗ lực như vậy.
"Một người đàn ông được cho là một trong những nhà khoa học- triết học vĩ đại nhất thuốc thế kỷ XIII và XIV tại châu Âu, Ramon Llull của Marjoca đã chế tạo thành công một cỗ máy mang Thần tính. Llull đặt tên nó là Volvelle, lấy từ tiếng Latin là Volvere, có nghĩa là “xoay chuyển”.
"Được làm từ giấy hoặc giấy da, volvelle có các phần di chuyển xoay và chỉ hướng đến các tinh tú trên đồng hồ hay hướng đến Thần tính và những tri thức về sự tồn tại của Thần trên chiếc Volvelle huyền bí. Chúng trông giống dụng cụ đo độ cao thiên thể thời xưa- được làm từ kim loại và được tạo rất sớm trước Volvelle." (Volvelle cấu tạo như hai bánh xe lồng vào nhau, chia thành các cung, mỗi cung tương ứng với một chu trình của Tạo hóa, thể hiện sự liên tục và chuỗi vận hành của Vũ trụ, đây là nội dung của Ý Chí Thượng Đế. Nguyên lý này cũng được Mandala sử dụng.)
"Llull như một triết gia luôn cố gằng hòa nhập với Chúa trời qua những lời cầu nguyện và thiền định, để từ đó lĩnh hội được những điều nằm ngoài nhận thức, hiểu biết của con người. Ông sinh năm 1232 ở Majorca và mất ở nơi đó năm 1315."
"Thần khí Volvelle xác định thời gian vào buổi tối thông qua một quy trình phức tạp,theo đó, thiết bị được xếp thẳng hàng với một ngôi sao ở phía cực; nhắm một mắt lại; đặt điểm giao của các vòng tròn vào vị trí giữa khuôn mặt; cách xa đều hai mắt, và định vị một ngôi sao khác quay quanh ngôi sao trung tâm. Thế nên miễn là bạn không di chuyển đầu hay tay của mình, bạn sẽ có thể xác định được vị trí của mình trong vũ trụ!” (Cũng giống như một hệ cửu cung sử dụng hướng Nam, Volvelle sử dụng Sao Bắc Đẩu làm mốc đánh dấu, ngụ ý sự tồn tại bản nguyên đến từ Vũ Trụ xa vời, xem Bắc Đẩu là cội nguồn của năng lượng bản nguyên)
"Trong volvelle huyền bí, các chữ cái thể hiện cho 9 thuộc tính của Chúa: B= Bonitas (Toàn Mỹ), C= Magnitudo (Vĩ Đại), D= Duratio (Trường Tồn), E= Potestas (Quyền Uy), F= Sapientia (Trí Huệ), G=voluntas (Tự-Nguyện), H= Virtus (Phẩm Hạnh), I= Veritas (Chân thật) và K= Gloria (Vinh Quang). Những từ này có thể được kết hợp theo nhiều cách và cùng với phần còn lại của Volvelle để tạo nên các câu mà theo Llull chứa đựng Chân lý."
“Trong pháp giới hợp lý của nó, sáng kiến cấp tiến mà Llull giới thiệu là thiết lập và sử dụng một chiếc máy làm từ giấy để kểt hợp các yếu tố của quá trình tư duy, chẳng hạn như “các yếu tố ngôn ngữ”. Nhờ vào các hình hình học được nối lại theo những quy tắc rất cụ thể chi tiết, Llull đã cố gắng suy ra tất cả các tuyên ngôn mà đầu óc con người có thể nghĩ đến. Các tuyên ngôn hay những câu lời này tuy vậy chỉ được trình bày dưới dạng những ký hiệu, chính xác như những chuỗi chữ cái.”
(Theo Gnial, dịch từ http://www.ancient-origins.net/)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.