Lại kể khi ấy con phượng hoàng bay
xuống có hơn một trăm người nhỏ, đó chính là lũ yêu tinh. Vì thấy chúng nhỏ
quá, lấp lánh, hay phát sáng, nên người ta mới gọi chúng bằng cái tên yêu (nhỏ
bé) – tinh (sáng).
Khi
ấy Duy Hựu đang đi đang thẫn thờ, đột nhiên thấy tiếng chim kêu kia, bỗng dưng giật
mình. Lũ người nhỏ nhỏ ở trên lưng con phượng hoàng đấy là gì? Thực ra chúng
thường cưỡi phượng hoàng. Tại sao chúng lại cưỡi phượng hoàng? Chính lúc chúng
cưỡi thì loài chim đấy biến thành phượng hoàng, đấy là nguồn gốc của nhận thức
con người nhân gian về phượng hoàng. Phượng hoàng đích thực thì con người không
mấy khi biết đến. Khi đám yêu tính cưỡi con chim đó, chúng tạo ra một năng lượng
xung quanh giống như quầng lửa, chúng bay trong mặt trời và không thấy được
chúng, nên người ta thường nghĩ phượng hoàng đến từ mặt trời. Có phượng hoàng đến
từ mặt trời, nhưng có những loại trông giống như phượng hoàng, chúng bay dưới
ánh mặt trời, trông như những đốm sáng. Chúng vẫn bay ở trên trời, nhưng mắt
người không thấy được. Nhưng lúc này Duy Hựu vừa từ Linh giới trở về, cho nên cảm
nhận được sự tồn tại đấy. Còn bình thường người ta đang đi, người ta chỉ nghe
thấy một tiếng thét, đột nhiên đầu óc choáng quá ngất ra, nhiều người từng trải
qua trạng thái bị chúng tấn công như thế. Nhưng Duy Hựu thì thấy được một con
chim lửa bay từ trên bầu trời xuống, trên có hơn một trăm tay nhỏ như hạt đỗ, hò
hét đòi: “Sát tử! Sát tử!”
Tại
sao đòi “giết nó”? Tất cả đám người đấy nhảy khỏi lưng con chim, xếp lại với
nhau thành một hình người, trông giống như hình người. Người này trên tay có
con chim, mới nhìn thật linh dị. Xưa kia, nhiều người đã thấy cảnh một người trông
thấp thoáng, lấp lánh, trên tay cầm con chim lửa, thì người ta cứ tưởng đấy là
một hình dạng của Thần linh. Thật ra đấy là hình dạng của một dạng linh thần
yêu giới. Duy Hựu khi ấy ngạc nhiên hỏi: “Sao các ngươi đòi giết ta?” Tiếng của
đám yêu tinh kia đấy phát đồng âm, đồng thanh vang đến tai Duy Hựu: “Sát nhân! Đắc
thân!” Duy Hựu nói: “Người đã chết, thì được thân người phỏng còn ích gì nữa?” Chúng
lại hét: “Sát nhân! Đắc thân!” Tại sao lại có cơ sự ấy? Đó chính là một lý rằng,
từ trước đến nay,linh thần khắp các cõi hết sức ý thức được rằng thân-người chỉ
là một căn phòng, một căn nhà, chỉ là một nơi để đón nhận những tín tức khác, điều
chế các năng lượng, trung y cũng có nhận thức như vậy, vì thế mà có thuyết tứ hải
khí trong thân người. Thân là một căn phòng, một lâu đài, một nơi để các linh
thần có thể trú ngụ, ngự trong đó. Đám tiểu yêu kia thì lại quá biết điều đấy, thế
là chúng lại hét tiếp: “Sát nhân! Đắc thân!”
Lúc
đấy Duy Hựu hết sức lúng túng, bởi vì chưa bao giờ gặp tình cảnh này, không biết
được đích thực những người kia là gì, không biết được linh thể này là ai. Thời
gian quá ngắn, Duy Hựu chưa từng phải tiếp xúc với các chủng Yêu-Linh-Tiên ở
các không gian khác nhau, đặc biệt là các chủng yêu quái có khả năng gây sự
nguy hại như thế. Bởi vì chúng ở giữa ranh giới của Linh giới và Nhân giới, chúng
đi lại trong Nhân giới, lại đi lại được trong Linh giới, họ có thể ở cả hai. Loại
này gọi là thấp thì thấp, gọi là cao thì cao, nhưng có tác dụng, có sức mạnh,
có khả năng kiểm soát người khác. Nhiều người đang đi gặp phải đám người này,
chúng nhập vào trong thân thể, thân thể liền phát sáng, về nhà liền cảm thấy có
năng lượng, thậm chí có thể thấy là đi ở trong bóng đêm mà người cũng rực rỡ,
chính là hình ảnh con phượng hoàng, không biết là đã bị loại người này trú ngụ
bên trong, đã trú ngụ bên trong tất nhiên sẽ phải trả công cho chúng. Thường
người đã ở đâu là phải tiêu tốn năng lượng cho phần ở đấy, để chúng ngự trong
thân thể phải trả bằng nguyên khí. Nguyên khí hết sức hùng mạnh và trân quý. Bởi
vì con người không tận dụng được nguyên khí, cho nên con người không biết là nguyên
khí hùng mạnh đến mức nào. Chúng tận dụng, thu hút, ăn lấy nguyên khí của người
ta trong mười năm, hai mươi năm rồi mới bỏ đi.
Lại
nói đang khi Duy Hựu lúc đấy hết sức lúng túng, còn chưa biết làm gì thì bỗng
nhiên nghe thấy một tiếng sáo hết sức dịu dàng, du dương, rồi một cô bé từ trên
trời phóng xuống, cưỡi một con hạc trắng. Trông cô bé đấy hết sức xinh xắn, đôi
mắt đen láy, tóc buộc hai bím ở trên đầu, trông như Tiên đồng Ngọc nữ, khuôn mặt
thanh mảnh, làn da trắng, hết sức xinh xắn. Duy Hựu bật thốt: “Sư muội!” Thì thấy
từ trên cô bé xuống chỉ ống sáo vào cái tay gần giống người, nửa giống người
kia, liền nói là: “Yêu tinh, lợi dụng chút yêu dị tà mị dọa người, chỉ là một
chút năng lực tỏa phát, hễ gặp bề trên động tay liền tan biến như tro bụi, có
gì đáng nói. Sư Huynh mau dùng thiên-chú mà tiêu diệt chúng đi!” Thế là cái đám
yêu tinh trong hình dạng bán nhân liền tiến đến gần, âm thanh gần như dữ dội,
tiếng rít giống như tiếng dao cứa vào thân.
Lời
của sư muội gần như đánh thức Duy Hựu, điều này Duy Hựu từng nghe trong lúc học
với Âm Dương Tiên: nguồn gốc của mọi dạng Tiên thể đều là những dạng thức khai
mở những thái cực trong một chủng không gian. Các thái cực không gian này vừa mở
ra, một loại năng lượng khác có thể tiến nhập vào. Duy Hựu lúc đấy liền bật
nghĩ trong đầu: “Ta không biết ta từ đâu đến, nhưng ta vẫn biết có thể đóng những
cánh cửa cửa cho phép chúng tuồn vào nhân gian.” Duy Hựu nghĩ đến đó, đột nhiên
đã hiểu điều sư muội nói, liền chạm hai ngón tay vào nhau, kết thành một ấn
trông như bông hoa sen, rồi hét: “Om!” Một tiếng ngân vang mạnh mẽ vang lên, rồi
bắt đầu không gian mở ra một ánh sáng hào quang. Năng lượng này rất mạnh, nó khiến
những năng lượng xung quanh bị thu hút vào. Bởi vì xuất hiện một khối năng lượng
to thì những khối năng lượng nhỏ xung quanh bắt đầu bị hút về phía đó. Khi tiếng
“Om” của Duy Hựu vừa quát thì hiện ra trong không gian một khối cầu sáng bay thẳng
về phía người nửa giống người nửa không kia, rồi những năng lượng để mở ra cánh
cửa cho đám linh thể này bị thắt chặt vào. Trong khoảnh khắc đấy tất cả những
ánh sáng xung quanh đám yêu tinh kia đột nhiên tắt phụt.
Đây
chính là một nguyên lí rất quen thuộc ở trong Đạo gia, đấy là dùng một thái cực
mạnh hơn để khóa các thái cực yếu hơn, dùng một năng lượng lớn hơn giải thể
năng lượng thấp hơn. Năng lượng lớn hơn có thể giải thể các vật chất bên dưới.
Bản chất vật chất là gì? Sự xuất hiện của một vật chất thực ra chính là sự xuất
hiện của những dòng chảy năng lượng, mà mỗi vật chất chỉ là những hình dạng
thái cực khác nhau, là một cách tương tác thái cực khác nhau, làm sao cho các
dòng chảy vật chất thông qua đấy mà vận hành. Mỗi thái cực giống như một bộ
tiêu chuẩn, một bộ qui tắc, khiến cho mọi vật phải tương tác với nhau như thế,
và năng lượng được vận chuyển ở trong cách thức của thái cực như thế, nó vừa là
khóa, vừa là cửa. Tất cả sự tồn tại của một sinh mệnh trong một không gian đặc
thù thì đều phụ thuộc vào loại năng lượng của thái cực đặc thù trong không gian
đó. Cho nên khi khối cầu Om của Duy Hựu vừa xuất hiện thì các thái cực khác ở
xung quanh đám yêu tinh bị đóng chặt lại. Bởi vì năng lượng đấy xuất phát từ
Duy Hựu, cho nên những năng lượng không phải Duy Hựu đều đóng chặt lại. Đây là
dùng cái lớn hơn giải thể cái nhỏ hơn. Thực ra đám người kia tuy hung hãn nhưng
quyền năng chỉ ở một mức rất yếu, chúng vốn không thể xâm nhập Tiên thể, có điều
khi chúng vừa thấy Duy Hựu, ở trong Duy Hựu sau khi trở về từ Linh giới đã mang
theo một vật chất hết sức đặc biệt, một tín tức hết sức đặc biệt. Vì người nào
đến Linh giới và trở về thì không bao giờ còn như xưa nữa, không thể như xưa được
nữa. Duy Hựu cũng ở trong trường hợp như thế, không thể như xưa được nữa. Thân
thể đã phát ra một loại tín tức, các chủng không gian đều có thể nhìn thấy, cho
nên việc đi lại các chủng không gian khác thực ra tuyệt đối là nguy hiểm.
Lúc
Duy Hựu vừa phát ra cung Om đấy, đám yêu tinh đột nhiên tắt mất ánh sáng, các
thái cực vừa đóng lại chúng liền bị giải thể lập tức, trả về không gian kia.
Thân thể ở trong không gian này của chúng lập tức biến mất, con chim biến thành
tro bụi rơi xuống đất. Nhưng một lúc nào đấy, sau khi Duy Hựu bỏ đi thì những
thái cực sẽ mở lại, bởi vì khi khối cầu Om kia biến mất, thái cực sẽ mở lại. Khi
thái cực mở lại chúng lại xuất hiện, con chim lại hồi sinh, lại trong hình dạng
con chim. Bởi vì thái cực của chúng là trong hình dạng yêu thể của loài chim, tức
là loại tinh điểu, yêu điểu, theo cách mà chúng ta hay nói. Khi mở lại như thế,
con chim sẽ lại rực sáng bay lên phía mặt trời. Tại sao bay lên phía mặt trời?
Bởi vì trong mặt trời năng lượng của chúng phù hợp nhất, chúng có thể vận hóa
như thế, đây chính là huyền thoại phượng hoàng tái sinh. Thực ra không phải phượng
hoàng tái sinh, mà sau khi bị diệt xong thì chúng lại có cách tái hồi. Bình thường
các loại linh thể này đi vào trong bóng râm cũng có thể biến mất, thế nhưng bằng
một ngày nắng, bằng việc tích lũy năng lượng, những thái cực của chúng lại có
thể mở, chúng lại có thể xâm nhập vào không gian này một lần nữa. Còn với qui
lí của nhân gian đều cấm loại này tồn tại, chúng chỉ tồn tại dựa trên ánh mặt
trời, tức là năng lực tinh hoa nhất của Tam giới.
Lại
kể chuyện Duy Hựu, sau khi vừa tiêu diệt xong đám yêu tinh, liền nhìn sang sư muội. Sư muội mỉm cười nói: “Sư huynh lâu ngày
không gặp, thật là trông khác!” Một lời ấy, ánh mắt long lanh ấy, thật là quan
thiết. Duy Hựu lúc đấy nhìn lại sư muội, vừa cảm thấy không hề quen thuộc tí
nào, vừa cảm thấy hết sức xúc động. Phải nhớ lúc mà Duy Hựu chia tay sư muội là
lúc gặp Tiên Quán Thánh và lúc đi theo Lâm Cung Thánh Mẫu, lúc đấy sư muội còn
rất nhỏ bé, cái nét không hề quen thuộc, hôm nay đã trông lớn phổng phao, chỉ
bé hơn Duy Hựu một chút, nhưng khuôn mặt hết sức thanh tú xinh xắn. Nên Duy Hựu
nhất thời không biết phải ứng xử ra sao, hơn nữa tình cảnh gặp lúc đấy hết sức
lạ kì, đấy là vừa trở về từ Linh giới. Tất nhiên Duy Hựu không biết là mình trở
về từ Linh giới. Nhưng sư muội ở đâu lại xuất hiện ở đây? Đấy là một chuyện rất
quan trọng, dù Duy Hựu nhất thời cũng không nghĩ được đến điểm đấy. Bởi vì con
người ta khi đang trong trạng thái bơ vơ mà gặp một người, thì thường lập tức
thấy người đấy quen thuộc, đấy là cơ chế của tình. Hơn nữa, Duy Hựu vừa phát
sinh tình với sư tỉ, mà lúc này không biết tình không thể trút vào đâu, cho nên
vừa gặp lại sư muội thì đột nhiên tình liền đổ về phía đấy. Tình đổ về phía đấy
không phải nói là sẽ thích sư muội, mà phải nói là sẽ cảm thấy sư muội hết sức
thân quen, đấy là cơ lí như thế. Đấy cũng là cái hại của tình, tình có thể khiến
người ta lẫn lộn, có thể khiến cho người ta bị tráo đổi những nhận thức, những
lí trí.
Sư
muội của Duy Hựu lúc đấy khuôn mặt hết sức xinh tươi, ánh mặt trời trên trán sư
muội tỏa sáng lấp lánh. Khi ánh mặt trời tỏa sáng lấp lánh thì ánh mặt trăng ở
trên trán Duy Hựu cũng tỏa sáng lấp lánh, hai ánh này hòa với nhau cảm giác như
một không gian ngũ sắc kết thành hình. Duy Hựu lúc đấy tự thấy hết sức kì lạ, ở
trong một trạng thái tâm hồn đều giống như đang bay bổng lên, nhưng không còn
suy nghĩ được gì nữa, dường như có một chuyện gì đấy rất quan trọng vừa xảy ra,
chính Duy Hựu cũng không lí giải nổi. Đây là trạng thái ở trong tiên thiên đang
có biến đổi mạnh, ở trong thân thể đang có biến đổi mạnh. Hãy nói lúc mà Duy Hựu
gặp sư tỉ và phát sinh ra toàn bộ khối cầu Cửu Phẩm Liên Hoa bằng lửa bên dưới
thì thân thể đã có biến đổi rồi, cho dù nay không còn ở trong trạng thái khai mở
như lúc gặp sư tỉ, nhưng thực ra thân thể đã có biến đổi, đều không như trước nữa.
Nói lại nguyên tắc của thái cực, bởi vì thân thể người ta cũng chỉ là các thái
cực kết thành hình, các thái cực này vận chuyển, chu chuyển năng lượng, cũng chỉ
là những cánh cửa để khai mở năng lượng, vận hóa năng lượng như một hệ thống.
Cho nên một khi có một số cánh cửa đã mở ra thì toàn bộ thân thể sẽ biến đổi,
không bao giờ như trước được nữa.
Hãy nói lúc đấy Duy Hựu cảm thấy rất thân quen
nhưng cảm thấy rất mơ hồ, nhưng Duy Hựu vẫn còn kịp tỉnh táo hỏi một câu: “Sao
muội biết ta ở đây?” Lúc đấy tại sao Duy Hựu hỏi câu hỏi đấy? Chúng ta hãy nhớ
rằng tâm lí của một người không bao giờ ở trong trạng thái ổn định, mà họ luôn
luôn ở trong trạng thái đang có một cuộc đối thoại với nội tâm. Tất cả chúng ta
đều đang trong một cuộc đối thoại với nội tâm, đấy chính là những suy nghĩ bề mặt
và những suy nghĩ từ sâu bên trong Chân mệnh có một giao tiếp với nhau, chúng
ta ở trong trạng thái đấy. Cho nên sức mạnh của người hướng nội là gì? Họ có thể
lắng nghe được cuộc đối thoại này. Còn sức mạnh của kẻ không thể hướng nội là
gì? Là bị cuộc đối thoại này xô đẩy. Lúc đấy Duy Hựu hỏi một câu là: “Sao muội
biết ta ở đây?” Thực ra điều đang xảy ra trong lòng Duy Hựu là gì? “Sao ta lại ở
đây?” Thực ra Duy Hựu cảm thấy hết sức lạc lõng, vừa để vuột mất sư tỉ, lại xa
rời sư phụ Dương Tiên… Duy Hựu ở trong Linh giới, trong một khoảnh khắc như thế,
ở dưới này Duy Hựu không hề biết rằng đã trải qua gần ba tháng. Vào lúc đấy cảm
giác khi trở lại nhân gian, bằng một cách nào đấy cảm thấy thời gian đã trôi
qua, thân thể giống như bị đóng băng trì hoãn, có một chút gì đấy lạ lẫm xa lạ
với mọi chuyện, Sư phụ Dương Tiên và mọi người đều không còn ở bên cạnh, không
thấy Sư phụ Tiên Quán Thánh đâu, sư tỉ thì bỏ mình đi, tâm trạng hết sức bơ vơ
lạc lõng. Đây chính là điều ai cũng luôn luôn trải qua trong tu luyện, ai cugnx
luôn luôn phải chia li những người hướng dẫn, luôn luôn xa cách với họ và luôn
luôn cố gắng nhận một ai đấy bên cạnh làm người thân, để bù lấp khoảng cách đau
khổ và cô độc đấy. Duy Hựu chính là rơi vào trường hợp này, ít nhất là vào lúc
này rơi vào trường hợp như thế.
Sau
khi Duy Hựu hỏi, cô bé ngước mắt nhìn lên, tiếng cười trong như ngọc: “Muội biết
huynh sẽ ở đây, muội trốn Sư phụ đến đón huynh. Sư phụ nói không được đón
huynh, từ đây trên đường về kinh thành nhất định huynh sẽ gặp nạn, phải để cho
huynh gặp nạn, gặp nạn tuy khó biết cát hung, nhưng phải tin vào an bài, vì các
Vị đều trông chờ huynh khai mở”. Duy Hựu rất mơ hồ đáp: “Lúc nào cũng nói ta có
sứ mệnh, ta có nhất thiết phải có sứ mệnh không vậy?” Đây là tâm trạng một khi
đã bị tình xâm nhiễm thì đều cảm thấy thân thể yếu nhược, liền cảm thấy rất khó
gượng dậy. Ở sâu trong lòng Duy Hựu thực ra đã có một chút rất khó gượng dậy, bởi
vì sự cự tuyệt của sư tỉ, sự lạnh lùng của sư tỉ, đã làm cho cái tình sâu trong Duy Hựu bị chấn thương, cho nên Duy Hựu
lúc đấy thốt lên một câu như thế. Đấy chính là một câu bài trừ sứ mệnh, chính
là lúc đang trong trạng thái từ bỏ Chân mệnh. Cho nên con người ta khai mở về
Thân, nhất định là Trí với Tình cần phải khai mở theo, cần phải bỏ cái xấu xuống,
nâng cái tốt lên, cần phải tiến về phía trước. Nhưng đấy là cả một quá trình
không dễ dàng chút nào cả.
Lại
nói lúc Duy Hựu vừa bật thốt ra câu đấy, lại tự vỗ đầu nói: “Không! Là ta sai lầm!”
Bởi vì Duy Hựu ở trong một trạng thái lắng nghe được cuộc đối thoại nội tâm của
mình, bởi vì từ Chân mệnh của Duy Hựu có một điều gì đã thức tỉnh, cho nên vừa
sai đã biết được chỗ sai rồi, đấy cũng là chỗ lớn của người tu. Thực ra Duy Hựu
trải qua một quá trình lâu dài tu luyện với bao nhiêu chư Tiên, Thần, gần gũi đều
là những người cao thượng bậc nhất ở cõi nhân gian đang tu Tiên, cho nên trong
lòng có phần cao thượng. Cho nên nói “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, chắc
chắn là gần người Tiên thì được Tiên Khí, gần chỗ núi Thần thì chắc chắn được
Thần Khí, bao giờ cũng vậy, nguyên tắc ở trong tu luyện cũng thế. Bởi vì tất thảy
nhân gian này là những chu trình năng lượng, các thái cực liền lạc với nhau, những
dòng chảy năng lượng đan xen nhau trong quá trình mở các thái cực. Cho nên Duy
Hựu ít nhất trong lúc suy sụp, trong lúc bị tình chi phối, một số thái cực Thần
khí đã đóng rồi, nhưng Thần Trí vẫn còn minh mẫn, cho nên vẫn còn thốt ra được
một câu như thế.
Sư
muội của Duy Hựu lại lắc đầu nói: “Muội nhất định phải đưa huynh đi, bởi vì lần
này huynh sẽ gặp một người không hay ho đâu.” Duy Hựu đáp: “Nếu ta nhất định phải
gặp, thì ta vẫn cứ gặp. Ta cảm giác rằng không gặp không được.” Lúc đấy sư muội
của Duy Hựu liền nói: “Được, vậy thì muội đi theo huynh.” Hai người ấy liền đi
với nhau, đi qua một quãng rừng hết sức êm đềm nhưng cảnh sắc hết sức kì quái.
Đang đi một đoạn thì gặp một người phía trước, trông người này cao lớn, khuôn mặt
trông sắc cạnh, đúng là một đại hán to lớn có khí thế Vương giả, mắt sáng như
sao, mũi thẳng, miệng rộng, đang đi dạo, nhìn đồ mặc trên người đã biết là dòng
dõi trâm anh thế phiệt, chắc chắn là nhân vật lớn. Ở bên cạnh lại có hai Đạo
sĩ, một Đạo sĩ mặc áo trắng, một Đạo sĩ mặc áo đen. Hai người này khuôn mặt đều
trông âm u khắc khổ. Lúc đấy sư muội của Duy Hựu mới nói: “Hỏng rồi! Hỏng rồi!”
nói xong liền chạy vụt ra phía đằng sau. Duy Hựu vừa ngoảnh theo đã thấy sư muội
biến mất.
Duy
Hựu liền nghĩ: “Cần gặp thì nhất định phải gặp”, liền đi đến phía trước, chắp
tay hỏi người trước mặt: “Kính hỏi lão bá, đi đường nào để về kinh thành Thăng
Long?” Người đấy mỉm cười nhìn Duy Hựu, nói: “Ta biết ngươi là ai, ngươi có biết
ta là ai không?” Duy Hựu nói: “Sơ giao giữa đường không nhất thiết phải biết
tên, đến Đạo còn vô danh, người có danh làm gì?” Người kia nói: “Ngươi biết Đạo
vô danh phải biết người hữu danh, như thế mới được. Ngươi biết cái Vô mà không
chịu biết cái Hữu thì cái Vô này là giả.” Duy Hựu nói: “Tên của ta còn không
quan trọng, cũng không cần biết đến tên ngài, cái Vô này sao lại giả được?” Người
kia liền nói: “Ngươi nhất định không muốn biết tên ta, dù ta có tên, như thế
cái Vô của ngươi mới đích thực là giả.” Duy Hựu lại nói: “Nếu như ta đã biết ở
trong lòng ta Vô là thực, thì không cần ngài nói Vô là thực hay không ta vẫn cứ
như vậy.” Người kia lại nói: “Nhưng rõ ràng ngươi có cầu ý biết tên ta, và lúc
này ngươi cũng muốn biết ta là ai mà không dám hỏi, cái tâm lí sợ hãi lại biến
thành mượn Đạo để đưa lên trên ngụy biện cho các tâm thái của mình, ngươi có biết
điều đấy là rất xấu không?” Duy Hựu mỉm cười nói: “Ngài có thể nhìn thấu tâm ý
của ta, tất là bậc cao nhân, xin cho biết danh tính.”
Người
kia vừa nghe đến đó liền ngửa cổ lên cười một tràng lớn rồi nói: “Có Ngộ tính!
Đúng là hi vọng của Tiên Môn!” Tại sao Vị ấy nói
như thế? Là bởi vì trong cuộc đối thoại, nhất định từ ban đầu Duy Hựu phải lấy
Đạo làm chỉ dẫn, kể cả trong lòng có sợ hãi nhưng phải lấy Đạo làm chỉ dẫn, đấy
là mấu chốt. Duy Hựu có thể lấy Đạo làm chỉ dẫn, vậy là tốt rồi, nhưng không phải
người ta lấy Đạo làm chỉ dẫn mà khoảnh khắc đấy có thể đồng với Đạo lí, nhất định
là có chỗ chênh lệch với Đạo lí. Người kia nhờ việc đoán biết tâm lí, có thể là
kinh nghiệm trí tuệ đều đã biết là Duy Hựu có chỗ không khớp với Đạo lí, liền
chất vấn Duy Hựu ở chỗ đấy, nhưng Duy Hựu phải làm thế nào? Nếu bảo thủ theo Đạo
lí bằng được, nhất định không thừa nhận chỗ sai của mình, như thế chính là bất ngộ.
Bởi vì người ta trong lúc lấy Đạo lí làm chỉ đạo liền nhận ra chỗ mình không hợp
với Đạo lí, sau đấy cải sửa điều đấy. Đấy chính là quá trình tu luyện, đấy
chính là quá trình ngộ, đấy chính là đại ngộ. Duy Hựu có thể sau một cuộc đối
thoại, ban đầu thì bảo thủ, nhưng về sau liền thừa nhận chỗ sai của mình, lập tức
thay đổi, có thể hòa nhã như vậy, tâm thần có thể thư thái như vậy, chứng tỏ là
thân thể trong một khoảnh khắc đã hòa nhập với Đạo ở điểm hữu danh vô danh đều
không quản nữa. Cho nên vị kia mới cười lớn nói: “Đây chính là hi vọng của Tiên Môn!” Ý của vị ấy rất rõ ràng.
Vị
này thật không tầm thường, ánh mắt, lời nói, tất cả đều trông giống như là một
luồng gió thổi bật Duy Hựu về phía sau, trong cảm nhận của Duy Hựu là như vậy.
Bởi vì trong lời nói của người ta, nhất là những người ở gần với Đạo, nhất là
những người có trí tuệ, đều có một sức mạnh thôi đẩy, giống như một người từ
bi, lời nói là có sức mạnh lôi kéo, nhưng lời người này giống như có sức mạnh đẩy
bật Duy Hựu ra đằng sau vậy. Duy Hựu liền mở to mắt nhìn, trong ánh mắt Duy Hựu
toát ra một tia hàn quang nhỏ, liền thấy người này trông giống như con Bạch Hổ
lớn lao, tiếng gầm gừ khiến cho sông núi đều rung động. Tất nhiên người thường
mà nhìn thì trông cảnh đấy không có gì thay đổi, nhưng Duy Hựu mà nhìn thì thấy
con hổ trắng này hễ gầm gừ là thiên hạ đều run sợ.
Lúc
Duy Hựu còn đang ngẩn ngơ nhìn như thế thì vị Đạo sĩ mặc áo màu trắng liền nói:
“Ăn thịt thằng bé này có thể thọ trăm năm.” Vị Đạo sĩ màu đen nói: “Ăn thịt thằng
bé này có thể thọ nghìn năm.” Vị Đạo sĩ màu trắng lại đáp: “Ăn thịt thằng bé
này có thể thọ vạn năm.” Rồi hai người đấy nhìn nhau, mắt hằn học tóe lửa. Vị
trông rất uy dũng cầm tinh Bạch Hổ kia liền nói: “Không cần phải trêu nó, ta biết
cần làm gì với nó, hai vị cứ về trước.” Hai người đấy liền thốt nhiên đang từ
gương mặt âm u lạnh lùng nở một nụ cười rất tươi, và nụ cười họ vừa nở thì những
bông hoa và cỏ cây xung quanh bỗng nhiên trở nên tốt tươi, cả những bông hoa
đang nở vào mùa khác đột nhiên nở vào lúc đấy. Duy Hựu bỗng nhìn thấy ở trong nụ
cười của họ có thấp thoáng bóng dáng như một bông hoa quỳnh đang nở muộn, nó hết
sức rực rỡ, đẹp đẽ. Duy Hựu nhủ thầm trong lòng: “Đúng là trong Đại Đạo Tu Tiên
lắm đường, phép thuật của hai vị này có thể hồi sinh vạn vật, có thể tạo ra sự
sống ở khắp nơi, có thể đạt đến một đỉnh cao của tu luyện như vậy, thật là đáng
ngưỡng mộ.” Xong đột nhiên Duy Hựu nghĩ đến đấy liền nghĩ là: “Trong lúc ta học
cùng Âm Tiên có thấy Sư phụ hễ động tay vạn vật liền khai mở, chạm vào đá đá liền
tự tách ra thành hoa, quyền năng này bao giờ ta mới học được nhỉ?” Duy Hựu vừa
nghĩ như thế, chưa kịp chặc lưỡi đã thấy hai vị kia biến mất.
Hai
vị kia vừa biến mất thì sư muội của Duy Hựu cũng đột nhiên xuất hiện bên cạnh,
kéo tay nói: “Kìa, họ đi mất rồi.” Duy Hựu nói là: “Họ là ai mà muội phải sợ vậy?”
Sư muội Duy Hựu lắc đầu: “Huynh đừng nên biết, đã biết rồi thì không thể sống
được nữa. Họ không cho người ta gọi tên, đã gọi tên họ rồi thì nhất định phải
theo họ xuống Âm Ti Địa Phủ.” Lúc Duy Hựu nghe đến đấy liền bật thốt: “Địa Ngục Môn!”, rồi quay sang nhìn vị kia nói: “Lẽ nào người
là Tôn Chủ của Địa Ngục Môn?” Vị cầm tinh Bạch Hổ
kia mỉm cười nói: “Ta không theo môn phái nào cả, tự nhiên chỉ biết chút Đạo
lí, gặp tiểu huynh đài đây thật hữu duyên. Ta có thể trò chuyện với ngươi một
đoạn đường không?” Duy Hựu chắp tay nói: “Kính hỏi tên của tiền bối?” Lúc này
Duy Hựu đã đổi gọi sang “tiền bối”. Thế nào là tiền bối? Là người đi trước đã
có bối phận cao hơn, gọi là tiền bối. Lúc này Duy Hựu gọi người kia: “Kính hỏi
tên tiền bối?” chính là có ý như thế. Người này mới nói là: “Cứ gọi ta là Tráng.”
Thế là sư muội của Duy Hựu vừa nghe thế cười khì khì: “Ai chẳng biết Địa Ngục
Môn đứng sau Trịnh Tráng ngài”.
Hãy
nói một chút về Trịnh Tráng. Người ta đều biết là hai người mở đầu của họ Trịnh,
đầu tiên là Trịnh Kiểm cầm tinh Ác Hổ, sau đấy là Trịnh Tùng cầm tinh Bạch Hổ
Tinh Quân. Hai người này một chính một tà, một trắng một đen, đều là người kiến
tạo nên toàn bộ tình thế cõi này khi ấy. Lúc mà Thành Tổ Triết Vương Trịnh Tùng
lên đã coi là thống nhất giang san, kiến tạo nên địa vị của họ Trịnh, được coi
là người đệ nhất rồi, trí tuệ bậc nhất, văn chương bậc nhất, tất cả đều bậc nhất,
cầm tinh Bạch Hổ Tinh Quân, có thể nói là giống như một tinh tú rất lớn, có một
trí huệ rất lớn. Họ ở nhân gian tự nhiên người tài đến giúp. Thực ra lúc còn sống
Trịnh Tùng qui tụ được hết người tài trong thiên hạ, ai gặp ông ta đều muốn
giúp ông ta bằng được, cho nên nói là cái gì cũng có, cái gì cũng làm được,
đúng là mang theo Mệnh Trời. Nhưng lại nói, một trong những người kế nhiệm ông
ta, Trịnh Tráng, còn có một sự nghiệp lẫy lừng hơn thế. Đấy là một nhân vật đặc
biệt, cầm tinh Bạch Hổ, nhưng Bạch Hổ này còn lớn hơn cả Bạch Hổ Tinh Quân. Lớn
hơn ra sao, về sau mới biết, nhưng chuyện đích thực lớn, thì trong lịch sử phải
ẩn đi, không được ghi lại. Ông ta đích thực là có quyền phép.
Lại
nói ông ta phẩy tay, nhìn sư muội của Duy Hựu nói: “Con bé, ta sẽ gặp ngươi lúc
khác, cứ đi đi đã.” Hóa ra hai người đã có quen biết từ trước. Duy Hựu liền
nghĩ trong đầu là: “Chắc chắn Sư phụ (tức Tiên Quán Thánh) vốn đã sắp đặt chuyện
này từ trước, cho nên sư muội mới biết ta ở đây, mà ngài Tráng cũng biết ta ở
đây.” Trịnh Tráng cầm tay Duy Hựu, hai người vừa bước hai bước Duy Hựu đã thấy
mình ở trên đỉnh một ngọn núi, và ngay dưới chân Duy Hựu thấy một dòng suối
đang chảy. Duy Hựu nghĩ: “Hình ảnh gì thế này?” Trong lòng Duy Hựu hết sức bối
rối, bởi vì việc một người có thể lập tức đưa một người đến một cảnh giới khác
là chuyện không dễ dàng, ngay cả với sư tỉ của Duy Hựu một khi đã thức tỉnh, muốn
đưa Duy Hựu đến cảnh giới khác cũng là một phép thuật hết sức cao minh. Hãy nhớ
là ngay cả Âm Dương Tiên cũng không thể đưa Duy Hựu có thể lọt đến một cảnh giới
khác trong khoảnh khắc như thế.
Trịnh
Tráng mỉm cười nói với Duy Hựu: “Ngươi đừng ngạc nhiên, ánh mắt ngươi nhớn nhác
như vậy, chứng tỏ là nghi ngờ ta quyền phép từ đâu mà có. Không cần thiết phải
ngạc nhiên như vậy, để ta nói ngươi hay, đây là Ảo cảnh. Ta không thể tạo nên
Tiên giới nhưng có thể tạo nên Ảo cảnh.” Duy Hựu liền hỏi là: “Sao ngài phải tạo
nên Ảo cảnh? Phép thuật này có ý nghĩa gì? Chẳng lẽ là định lừa người?” Trịnh
Tráng thở dài nói: “Lừa người ta không dám, nhưng ta có thể tự lừa mình.” Trịnh
Tráng nói đến đấy liền chỉ lên bầu trời nói: “Ta cũng muốn bay lên trời, cũng
muốn được sâu trong lòng đất, cũng muốn khám phá những bí mật, hiềm vì Thiên Mệnh
giăng ở trên đầu không thể làm khác được. Thân thể này phải đặt ở nhân gian,
tinh thần này đặt ở trên cao, ta muốn về mà không về được, muốn lùi mà không
lùi được, nhất định phải tiến. Cho nên ta có thể làm nên một việc, đấy là học
phép thuật tạo nên Ảo cảnh, tự ta cho ta cảnh Tiên, như thế trong lúc ta ở nhân
gian này lòng có thể khuây khỏa.” Duy Hựu nói là: “Sao ngài không tính chuyện
trở về, việc gì phải ở lại?” Trịnh Tráng quay ra hỏi Duy Hựu: “Sứ mệnh cao hơn
hay Tiên môn cao hơn?” Duy Hựu nói: “Sứ mệnh hơn cả, Tiên môn hơn cả” Trịnh
Tráng cười bảo: “Ngươi nhất định sẽ làm vua!”
Trịnh
Tráng trầm ngâm rồi bảo với Duy Hựu: “Thực ra tình thế hết sức phức tạp. Họ Mạc
ở phương Bắc đã được các Tà môn, Ma cung, Quỷ phái phục vụ. Ta biết rằng tình
thế hết sức hung hiểm, sắp tới ta sẽ tiến lên phía Bắc, chỉ e có một đi mà
không có về.” Tất nhiên Trịnh Tráng trong đời không chết trận bao giờ, tuy
nhiên phải vượt qua một mốc như vậy tất nhiên là áp lực rất lớn. Duy Hựu nghe
thế liền hỏi lại Trịnh Tráng: “Ngài có Địa Ngục
Môn đỡ đầu, là lực lượng lớn nhất bây giờ. Ngài đâu còn phải lo lắng nữa?” Trịnh
Tráng đáp: “Địa Ngục Môn chỉ có thể giúp ta bảo
toàn sinh mạng, không thể giúp ta chiến thắng được.” Duy Hựu gật gù nói: “Vãn bối
hiểu điều này.”
Bởi
vì ở trong các Tiên Môn Chính Phái đều không có
chuyện giúp cho người ta thắng, chỉ có thể bảo hộ người ta thôi. Bảo hộ là Đạo
lí, điều đấy cả Duy Hựu lẫn Trịnh Tráng đều biết. Cho nên có thể được một môn
phái phù trợ, cũng không thể nói như thế là đã có chiến thắng, chỉ có thể nói bảo
toàn được tính mạng. Bảo toàn được tính mạng, đấy là cốt lõi của Đạo gia. Đạo
gia chỉ quan tâm khi đã phù ai thì bảo toàn tính mạng cho người đấy. Bảo toàn
tính mạng để làm gì? Để cái mạng đấy có giá hơn, chứ không phải bảo toàn tính mạng
để có thể phung phí cái mạng đấy. Có giá hơn thế nào? Một là phù với Thiên Mệnh,
hai là có thể phù với Đạo lí, làm được Thiên Mệnh cũng tốt, làm với Đạo lí cũng
tốt, theo lẽ nào cũng tốt. Nhưng đã được Đạo gia bảo hộ cho thì chính là theo
hướng đấy, cho nên Đạo gia mới phát triển các thuật. Thứ nhất là các Tiên thuật
về chữa bệnh, thứ hai là các Tiên Thuật về trấn yểm. Đều dùng để làm gì? Bảo Mạng.
Lại
nói lúc đấy Duy Hựu có một điểm thắc mắc nói với Trịnh Tráng: “Xin tiền bối nói
cho ta rõ…” Riêng điểm này hãy dừng ở đây một chút. Tại sao một đứa trẻ khoảng
mới 9, 10 tuổi có thể nói với một lão già kia là “ta”? Là bởi vì Duy Hựu là học
trò của Âm Dương Tiên, học trò của Nguyễn Minh Không, là người được Lâm Cung
Thánh Mẫu đỡ đầu, địa vị ở trong toàn bộ cõi nhân gian là cực lớn. Lúc đấy nếu
như ở trong cõi nhân gian mà gọi Duy Hựu thì gọi là gì? Chí ít, nếu như người
ta biết đến Đạo Mẫu thì cũng phải gọi Duy Hựu là “cậu”, bất kể tuổi tác bao
nhiêu cũng phải gọi Duy Hựu là “cậu”. Chưa kể nhà vua này không theo môn phái
nào, không được thừa nhận theo bối phận nào, thì Trịnh Tráng không thể gọi Duy
Hựu giống như là con cháu ở bên dưới, không thể gọi là đệ tử. Duy Hựu đã gọi là
“tiền bối”, như thế là rất nể rồi. Ở trong việc tu luyện, ý thức được bối phận
của mình trong tu luyện, điều đấy hết sức quan trọng. Những kẻ không thấu bối
phận, hôm nay làm việc này, ngày mai làm việc khác, ở trên cao mà hành xử như
thể dưới thấp, những kẻ đấy không có tương lai, ở trong Tiên Môn đều không thừa
nhận.
Quay
trở lại chuyện Duy Hựu lúc đấy hỏi Trịnh Tráng: “Ngài có biết xuất xứ của Địa
Ngục Môn chăng?” Trịnh Tráng nói: “Địa Ngục Môn, đấy là những người giữ cửa Địa
Ngục. Ta biết ở Đại Việt này, ngay trong thành Đại La, ngay trong cõi Tiên đấy,
ngày xưa Cao Vương đã từng trấn yểm không cho cửa Địa Ngục mở ra. Chính vì Cao
Vương trấn cửa Địa Ngục cho nên mới khiến cho danh của ngài từ đấy bị vấy bẩn,
tà ma đều bôi nhọ ngài, khiến cho người ta một khi đã thực sự bác bỏ, bài xích
Cao Biền rồi thì cửa Địa Ngục đấy sẽ mở ra một lần nữa. Cho nên những người
canh giữ đấy, ta biết họ đều là Địa Ngục Môn, khi đến Thăng Long ta đã gặp họ.
Họ chọn người có tướng tinh có thể trấn áp tà ma như ta để phù hộ, mong ta có
thể theo tiến bước ngăn chặn những âm mưu của Ma môn Quỷ phái định mở rộng cửa
Địa Ngục một lần nữa, tháo giải phong ấn của Cao Vương.” Đấy là nguồn gốc của Địa
Ngục Môn. Họ vẫn tồn tại bí mật ngay giữa chúng ta đến tận giờ.
Lúc
đấy Trịnh Tráng lại trầm ngâm nói với Duy Hựu: “Nếu ta đi mà không về, ngươi
hãy tìm cách lên làm vua. Sau khi ngươi lên làm vua, có ba việc ta đều đã lưu lại
chiếu thư, sẽ có người mang đến cho ngươi. Nhưng chuyện đấy nhất định phải làm
bằng được.” Duy Hựu nói: “Ta không có chí nguyện làm vua, cũng không có chí
nguyện nhận người ta đã gặp ở kinh thành là cha. Điều ta cần làm giờ là tìm sư
tỉ.”
Trịnh
Tráng nghe thấy có một chút bất ngờ, quay ra nhìn Duy Hựu: “Sư tỉ của ngươi là
ai?” Duy Hựu liền chỉ tay lên bầu trời nói: “Sư tỉ của ta ở trên đó.” Vì trong
không gian của Ảo cảnh có một đặc tính kì lạ, đấy là điều gì người ta nghĩ thì
đều biểu hiện ra. Điều mà Duy Hựu muốn nói là gì? Là sư tỉ là vị ở tít trên
cao. Nhưng một ý niệm của Duy Hựu, vì nằm trong kết giới của Trịnh Tráng liền
hiện ra một người trông đẹp đẽ hết sức, đang mỉm cười với Duy Hựu. Đây chính là
ước mơ của Duy Hựu, được sư tỉ rất trân trọng ưu ái. Trịnh Tráng vừa nhìn thấy
người đấy liền bật cười nói: “Ngươi thật là tuổi trẻ đã có đa tình!” Mặc dù lúc
đấy Duy Hựu mới chỉ là một thằng bé 9 tuổi, đa tình đến như thế, ở trong Tiên
Môn thật là kì quặc. Nhưng thực ra nhắc với mọi người, tại sao tình của Duy Hựu
lớn đến thế? Một là bởi vì từ bé đã ở bên cạnh sư tỉ, cái thứ hai, lúc mà lớn
lên được sư tỉ dẫn lối, đều coi sư tỉ là người nữ lớn lao nhất mà mình biết,
sau nữa đấy là bởi vì sư tỉ của Duy Hựu tuyệt tình cho nên Duy Hựu nảy sinh
tình, cái lí chính là như thế. Cho nên lúc đấy trong lòng mà nói là tơ tưởng
thì chỉ nghĩ đến một người.
Trịnh
Tráng nhìn sư tỉ của Duy Hựu một lúc bất giác kinh nghi, khuôn mặt biến sắc nói
là: “Không được! Người này phải chết, không hceets không được!” Duy Hựu nghe được
câu “người này phải chết”, bỗng giác nói: “Giết cũng được, không giết cũng được,
quí hồ cho ta gặp lại sư tỉ. Đã gặp sư tỉ rồi, sống cũng được, chết cũng được,
ta không quan tâm nữa.” Lúc đấy Trịnh Tráng âm thầm nhìn Duy Hựu, trong lòng
ông ta có rất nhiều suy nghĩ lẫn lộn. Ông ta là bậc đế vương, cũng là Chân Mệnh
đế vương, cũng là một trí tuệ kiệt xuất, có thể tự học Tiên thuật mà ngộ ra được
Ảo cảnh Tiên giới, cho nên đấy là người không tầm thường chút nào. Lúc đấy ông
ta nhìn Duy Hựu vừa băn khoăn tính toán, lại nhìn hình ảnh của sư tỉ Duy Hựu
theo cái hiện tướng trong trí tưởng tượng của Duy Hựu mà in lên. Ông ta tính
toán một hồi rồi bất giác thở dài nói là: “Đại sự hung hiểm, thật là khó tính
biết. Hôm nay là một người, ngày mai là hai người, sau có thể là ba người. Thiên
tượng mênh mang, dễ đoán khó đoán, không thể nói rõ được.” Trong lời nói của Trịnh
Tráng đã có cân nhắc lý giải, nhưng ông ta cũng biết là mệnh trời khó đoán,
tình huống phức tạp, nhất định sẽ có nhiều biến chuyển xảy ra. Rồi ông ta lại
nhìn Duy Hựu, lúc đấy vẫn còn đang ngẩn ngơ nhìn lên trên bóng sư tỉ của mình ở
trên cao, xong ông ta lại lẩm nhẩm ở trong đầu: “Nếu ta có thể chết mà tài bồi
được thằng bé này, thì ta cũng phải làm.”
Nên
nhớ là ông ta không phải người trong Tiên Môn, nếu không biết những bí mật quá
sâu xa của Tiên Môn, chỉ có thể dựa vào hình tướng của Duy Hựu, biết rằng người
này mang phong thái lớn, nhất định sau này có sứ mệnh lớn. Thường là người ở
trong Đạo gia, nhất là những người đã chấp chỉ Thiên Mệnh, đã thấy người mang
Thiên Mệnh, tất nhiên sẽ trợ lực hết sức. Giống như người trong Tiên Môn vậy,
đi qua gặp người sẽ đảm nhiệm Thiên Mệnh, cải sửa nhân gian, những người này liền
giúp sức hết sức. Cho nên những người trong Tiên Môn có một bộ phận thậm chí họ
được tạo ra, họ được học các phép thuật dùng để trợ giúp các đế vương, nhiệm vụ
của họ chính là như thế. Thậm chí sau khi Tiên Môn tan rã trong lịch sử về sau,
rất nhiều các đệ tử của Tiên Môn đều tìm cách đi tìm các đế vương để trợ giúp.
Lại nói lúc đấy Trịnh Tráng đã thấy ở trong Duy Hựu có tướng tinh của Vạn Vương
chi Vương, cho nên lòng biết là người này nhất định phải phò tá, không chỉ Trịnh
Tráng, sau này còn rất nhiều người sẽ phò tá Duy Hựu. Nhưng có điều là, tâm thần
đã bị phân tán, đấy chính là một điểm mấu chốt khiến cho Duy Hựu về sau sẽ gặp
không biết bao nhiêu ma nạn và trắc trở.
Có
thể nói cho đến lúc trước khi gặp lại sư tỉ của mình, Duy Hựu chưa bao giờ rơi
vào một trạng thái như thế. Dẫu có đi cùng với Lâm Cung Thánh Mẫu, đi cùng với
Nguyễn Minh Không, trải qua bao nhiêu gian khó cùng với Âm Dương Tiên, tuyệt
nhiên không nảy sinh chút tâm trạng bi lụy nào, đáng lẽ tâm thái ngày một cao,
tinh thần ngày một mạnh mẽ. Nhưng từ lúc gặp sư tỉ không ngừng suy sụp, nếu
không có người cứu giúp tất nhiên là sẽ ngã. Chính Trịnh Tráng cũng không biết
phải làm sao cả, ông ta chỉ biết ngắm nhìn rồi thở dài, nhưng ông ta biết rằng
Thiên Mệnh đã trao một người tất có lí.
Lúc
đấy Trịnh Tráng trầm ngâm một chút rồi nói với Duy Hựu: “Ta chỉ cầu xin ngươi một
điều.” Duy Hựu nói: “Ngài cứ nói.” Trịnh Tráng liền nói: “Ở sau xứ Hóa Châu (tức
là tương đương với Thừa Thiên Huế ngày nay), từ Hóa Châu đi xa nữa về phía nam,
còn có những người khác, họ cũng mang Thiên Mệnh đế vương. Hắn sau sẽ ngực ở
làng Kim Long, ngươi hãy nhớ sau này gặp hắn quyết không được giúp hắn.” Đấy
chính là một điều mà trong đời Duy Hựu, tuy nhận lời của Trịnh Tráng nhưng lại
không làm được, đã khiến cho tình thế trở nên phức tạp. Một chuyện không làm được
đấy sẽ khiến cho sinh linh đồ thán. Lại nói đúng lúc Trịnh Tráng nói đến điều đấy
bỗng nhiên mặt ông ta biến sắc, khuôn mặt thất thần ông ta nói: “Nguy rồi!” Rồi
ông ta đưa tay lên bắt quẻ, vừa bắt quẻ xong quay lại Duy Hựu nói là: “Ngươi đi
thẳng về phía trước, trăm dặm nữa là đến kinh thành Thăng Long.” Nói xong ông
ta liền thoắt ẩn thoắt hiện, đột nhiên lấp lánh rồi thấy hai vị đen trắng của Địa
Ngục Môn cùng xuất hiện, Âm Dương Tả Hữu Sứ, mỗi người xách một tay của Trịnh
Tráng cùng bay lên trên trời giống như là hai con chim cắp ông ta đi vậy. Ông
ta cứ thế mà bay đi mất, miệng vẫn không ngừng tiếng cười lớn rồi quay ra chào
Duy Hựu từ xa nói: “Nhất định ta sẽ còn gặp lại ngươi.”
Thế
là lúc đấy là lúc Duy Hựu bắt đầu mở ra một sứ mệnh mới, đây chính là lúc Duy Hựu
nhập nhân gian. Đây là kết thúc của lục đạo rồi bắt đầu đến quá trình nhập nhân
gian của Duy Hựu.
Trong
lúc Duy Hựu còn đang rất ngỡ ngàng nhìn theo bóng của Trịnh Tráng bay lên, vì
hình ảnh đấy hết sức kì dị, hơn nữa Duy Hựu còn nhỏ tuổi, cho nên thấy những cảnh
kì dị đều hết sức cảm thấy thú vị, thích thú. Đây cũng chính là tâm trạng tò mò
tiên thiên của con người, cũng chính là chỗ rất gần với Đạo của Duy Hựu, cho
nên tâm trạng hết sức ngây thơ. Khi người ta đang gặp chuyện, tức là đang trong
một mối tơ vò giống như Duy Hựu, thường thì lúc đấy để chữ tình chi phối, thấy
người đi lại nhớ người trong mộng, thấy chia li tất nhớ đến bản thân mình.
Nhưng Duy Hựu lúc đấy, bởi vì bản tính của Duy Hựu rất gần với Đạo, cho nên khoảnh
khắc đấy nhìn cảnh Trịnh Tráng người to lớn như thế lại được hai vị gầy gò,
khuôn mặt âm u quắp bay lên trên bầu trời lại cảm thấy hết sức thú vị, bật lên
một tiếng cười khanh khách.
Duy
Hựu vừa bật tiếng cười thấy bên cạnh cũng có tiếng cười, ngoảnh ra thấy sư muội
của mình khuôn mặt xinh xắn, cầm chặt lấy tay nói: “Bây giờ huynh đi với muội
được chưa?” Duy Hựu liền nói là: “Sao muội bảo gặp người này thì nguy hiểm?” Sư
muội của Duy Hựu lắc đầu nói: “Huynh lẽ ra không nên gặp. Người này cốt ý sau
này sẽ nhét huynh dưới đáy địa ngục, chính là Sư Phụ nói thế (Sư Phụ ở đây tức
là Tiên Quán Thánh). Nếu ông ta không gặp huynh hôm nay, không nói được với
huynh hôm nay, tất ngày sau sẽ không tìm cách gia lực can thiệp vào huynh.
Nhưng ông ta đã gặp huynh hôm nay, ngày sau huynh chống lại ý ông ta, nhất định
ông ta sẽ đày đọa huynh bằng được.” Đó chính là bản tính của Bạch Hổ Đế Vương.
Duy Hựu nói: “Nếu ta đã bắt buộc phải gặp thì lẽ nào có thể không gặp?” Sư muội
của Duy Hựu nói: “Đã biết là không nên gặp thì có thể không gặp, đấy chính là cắt
duyên. Bởi vì huynh với ông ta vốn không có duyên, chỉ là trong kiếp này mà có
duyên.” Duy Hựu ngạc nhiên mở tròn mắt nhìn sư muội của mình nói: “Muội nói đến
chuyện tiền kiếp như thể biết ta là có kiếp trước như thế nào!” Sư muội của Duy
Hựu nói: “Đến lúc này lại còn ai không biết, chuyện này đã truyền khắp Tiên
Môn, rằng ngài Nguyệt Quang đã giáng thế.” Duy Hựu lắc đầu nói: “Ta không phải
Nguyệt Quang, chính là sư tỉ.” Sư muội nói: “Sư tỉ không phải Nguyệt Quang,
chính là sư huynh. Huynh đừng chối nữa, muội biết cả rồi.” Xong rồi lại cười hì
hì nói với Duy Hựu: “Giờ ta có thể đồng hành cùng ngài Nguyệt Quang, thật là vạn
hạnh vạn hạnh.” Nói xong liền cúi chào một chút, làm cái ống sáo rơi ra, trên ống
sáo có khắc hình mặt trăng mặt trời. Đây chính là người sẽ đi cùng Duy Hựu
trong đoạn đường sắp tới.
Lại
nói chuyện ở trong Linh giới, mọi người thấy là Duy Hựu đã gặp một người khuôn
mặt trắng như ngọc, lại nói người đấy sau này sẽ cùng với Duy Hựu mà hại sư tỉ,
chính là ba người này mặc định từ ban đầu đã biết nhau như thế rồi. Lúc đấy Duy
Hựu nhìn sư muội của mình rồi lại nhìn lên bầu trời nói: “Nếu muội có thể đưa
ta đi gặp sư tỉ, muội có biết sư tỉ ở đâu không?” Sư muội của Duy Hựu im lặng rồi
đứng nấp đằng sau lưng sư huynh của mình, khuôn mặt, ánh mắt long lên một tia
sáng rất dị kì, xong trong miệng lẩm bẩm nói: “Không gặp sư tỉ còn tốt hơn là gặp.
Nếu huynh gặp sư tỉ nhất định huynh phải chết.” Lúc đấy nghĩ lẩm nhẩm như thế rồi
lại quay sang nói với Duy Hựu: “Nếu phải chọn giữa muội và sư tỉ, một người sống
một người chết, huynh chọn ai?” Duy Hựu nói: “Thật nực cười, ta không bàn đến
chuyện đấy.”
Thực
ra một đứa trẻ 9 tuổi, một đứa trẻ 8 tuổi, bàn đến chuyện đấy không khỏi có
chút nực cười, thế nhưng ở trong những người gần với Đạo, chuyện sống và chết
dường như là chuyện duy nhất có nghĩa. Bởi vì sống là tiếp tục, chết là chấm dứt,
đối với họ điều đấy hết sức rõ ràng. Chính ra đối với con người bình thường sống
và chết không có nhiều ý nghĩa lắm, chỉ trừ đến khi bị đe dọa. Họ không hiểu được
sự quan trọng của sống và chết, họ không hiểu được sự quan trọng của những lựa
chọn sống và chết, họ không hiểu được ý nghĩa của sinh tử cho nên họ nhất định ở
trong vòng sinh tử. Người muốn vượt trên sinh tử phải suy nghĩ về sinh tử một
cách nghiêm túc, phải có thể khống chế được ý niệm sinh tử, phải có thể vượt
qua được ý niệm mà thời gian đang ám ảnh lên mình, đấy là phép Thôi Miên, đấy
là Nhiếp Hồn Đại Pháp vô tận của thời gian trên mỗi con người. Duy Hựu và đứa
bé đấy nói chuyện đấy nghe thì nực cười, chính là không nực cười chút nào. Họ đều
biết đến một lúc, sinh mệnh chính là được thử thách, vấn đề không phải là
sinh-tử, vấn đề chính là sinh-mệnh, liệu có còn tiếp hay không. Sinh mệnh nào
chọn sinh mệnh nào, thái cực nào vận chuyển theo năng lượng nào, đến lúc đấy đều
phải lí giải cả. Ở trong nhân gian việc sinh và tử còn mấu chốt và hệ trọng hơn
nữa, bởi vì một việc đã lỡ thì không thể vãn hồi.
Lúc
đấy sư muội của Duy Hựu mới nói: “Trong những tháng huynh vắng mặt, Sư Phụ có
nói với muội thế này. Đấy là huynh mang theo Nguyệt ấn, từ ban đầu đã được định
trước là ngài Nguyệt Quang. Muội mang theo Nhật ấn, từ ban đầu đã được định trước
là phò tá huynh. Có điều khi huynh ở đây lại xảy ra một hiện tượng, đấy chính
là sư tỉ của chúng ta ở trên vai phải vai trái lại có điềm dị tượng còn đặc biệt
hơn cả Nhật Nguyệt ấn, đấy chính là Nguyệt Quang.” Sau lưng của sư tỉ Duy Hựu đấy
là sau khi tu viên thành bỗng xuất hiện một hình ảnh ánh trăng, tức là không cấu
thành hình mặt trăng như Duy Hựu mà lại phát ra ánh trăng, đây chính là điềm
Nguyệt quang. Cho nên khi mọi người mới nhìn thấy sư tỉ của Duy Hựu, những người
mở nhãn đều thấy Nguyệt quang lấp lánh, đều không biết đâu mới là Nguyệt Quang
thực. Một người có Nguyệt ấn, một người có Nguyệt quang, cho nên lúc này thật sự
không biết ai mới là Nguyệt Quang. Sư muội của Duy Hựu lại nói tiếp: “Chính là
bởi vì không biết huynh hay sư tỉ là Nguyệt Quang, nên mọi người đều quyết định
đấy là phần dương, tức là phần biểu hiện ra là Nguyệt Quang, phần dương chính
là Nguyệt Quang còn phần âm là giả Nguyệt Quang. Bởi vì mọi người đều nói trên
đời có lí chính phản đồng xuất, cho nên huynh ở đây nhất định sẽ có một lực lượng
chống đối huynh xuất hiện. Huynh chưa khai mở Nguyệt quang mà có lực lượng đã
dùng Nguyệt quang để trấn áp huynh, cho nên phần đấy chính là Tà phái. Sau này
Tiên Môn đều sẽ tìm người đấy mà tru diệt.” Rồi nói xong sư muội của Duy Hựu lại
cười khinh khích nói: “Ai mà tiêu diệt được sư tỉ cơ chứ, sư tỉ quyền phép, muốn
đến là đến, muốn đi là đi, đột nhập vào không gian này, tiến ra không gian nọ. Muội đã nhiều lần theo dõi, thấy sư
tỉ thật là lắm quyền phép như vậy, không ai bắt được sư tỉ cả.”
Xong
rồi lúc đấy bỗng nhiên sư muội của Duy Hựu ngẩn ngơ một hồi rồi gãi đầu nói:
“Nhưng giả sử huynh thật sự muốn tìm sư tỉ, thì có một nơi có thể đến.” Duy Hựu
nói: “Đâu có thể đến?” Sư muội của Duy Hựu nói: “Có một nơi khi Tiên Chúa Liễu
Hạnh giáng thế lấy tên là Quỳnh Hoa Dung Công Chúa, có Quỳnh Hoa Điện ngự ở nơi
đấy, ẩn trong sương núi. Ta nhớ có một lần sư tỉ có nhắc đến là muốn đến Quỳnh
Hoa Điện chơi một chuyến. Lần này sau khi biến mất cùng với sư huynh, và mọi
người đều có nói rằng sư huynh và sư tỉ đều đã biến mất ở trong Linh giới, chắn
chắn là trong chuyến đi sau khi trở về, sư tỉ sẽ muốn tìm đến Quỳnh Hoa Điện. Vậy
hôm nay nếu như huynh có thể tìm ra Quỳnh Hoa Điện, không đi Thăng Long nữa,
không chấp nhận chấp chưởng sứ mệnh, không muốn làm vua nữa, thì chúng ta có thể
đến Quỳnh Hoa Điện chơi một chuyến.”
Duy
Hựu cắn răng nói: “Ta không về kinh thành, nhất định đến Quỳnh Hoa Điện một
chuyến. Nhưng muội có biết Quỳnh Hoa Điện ở đâu không?” Sư muội của Duy Hựu mới
cầm ống sáo lên, gõ gõ vào ống sáo, từ trong ống sáo rơi ra một tờ giấy hoa
tiên, một mảnh hoa tiên, một mảnh giấy nho nhỏ. Mảnh giấy hoa tiên đấy vừa rơi
xuống chạm vào đất liền bùng lên biến thành một dải sáng, rồi dải sáng đấy hóa
ra một mũi tên nhỏ nhỏ. Cái mũi tên này rơi xuống thành một mũi tên đồng be bé
nằm trong tay Duy Hựu. Mũi tên đồng này trên đấy có khắc hình của một cung điện
có đồ hình dẫn qua sông núi dẫn đến. Sư muội của Duy Hựu nói là: “Muội biết
Long mạch nằm ở Quỳnh Hoa Điện, đi theo Long mạch tất đến, có điều muội lại
không biết Long mạch nằm ở đâu.” Duy Hựu bật cười nói: “Chúng ta có 64 Long mạch,
chắc chắn trong một Long mạch đấy phải có Long mạch dẫn đến Quỳnh Hoa Điện.” Sư
muội của Duy Hựu nói: “Vậy thì huynh nói xem là Long mạch nào?” Duy Hựu ngẩn
ngơ rồi lại đáp: “Có phải đi hết 64 Long mạch, ta cũng nhất định đi.”
Phần
nhập nhân gian chính là phần bắt đầu với việc đi tìm Quỳnh Hoa Điện. Duy Hựu
không hề biết rằng Quỳnh Hoa Điện đấy chính là điện bằng vàng Duy Hựu đã nhìn
thấy trong Linh giới. Tại nơi đấy, các sứ mệnh đều sẽ thức tỉnh. Có điều chúng
ta biết là một khi sứ mệnh đã thức tỉnh thì không còn đường lùi nữa, chính là
biết hay không biết, rốt cục đều sẽ phải gặp nhau ở nơi đấy. Như thế là mở màn một
giai đoạn mới trong đời Duy Hựu.
Lại
kể, sư muội của Duy Hựu thốt lên: “Sư huynh, Sư phụ hình như biết trước muội sẽ
trốn đi tìm Huynh, nên có giao vật này từ trước cho muội.” Nói xong liền lấy ra
một cuốn sách thẻ tre nhỏ, vẽ hình một bộ công pháp trông rất kì dị, ghi bên
ngoài là: “Vô Thượng Du Già Đại Pháp”. Duy Hựu thấy vậy hết sức thích thú, bèn
ngồi xuống tập theo, thân thể thoải mái vô cùng. Lại thấy trong cuốn sách ghi
chép cả về giờ ngủ, giờ thức, công việc chi tiết. Duy Hựu băn khoăn hỏi sư muội:
“Ta thấy ghi chép thêm phần này phải chăng không còn phù hợp? Vì chúng ta đâu
có còn ở trên núi nữa?
Sư
muội Duy Hựu lắc đầu đáp:
“Hồi mà muội tu luyện trên núi, nhiều khi rất
mệt bởi vì ngày có 12 canh dài lắm, rồi trên núi không biết làm gì, lại phải thức
ngủ theo giờ Lục đạo, dài lắm. Luyện công xong, rồi lại đọc Kinh xong, đọc Kinh
thì mệt lắm, tra vấn tâm trí, thực hiện nhiệm vụ Sư môn. Nấu ăn xong, chẻ củi
xong, quét xong, dọn dẹp xong, rất là nhiều, sao thời gian vẫn cứ thừa dài ra.
Thức một lúc sau thì mệt, không thức thì lúc sau lại khổ. Cuối cùng muội quyết
định cứ mỗi lúc mà chuẩn bị đến giờ, ví dụ như không dậy nổi, lúc đấy chỉ tự
nghĩ vào đầu là: “Dậy luyện công! Dậy luyện công!” Nếu ý niệm này mà thắng được
cơn ngủ, thế là muội thắng được nhân gian ở một mức, tốt rồi. Chuẩn bị mà muội
buồn ngủ thì muội nghĩ là: “Không học nữa, luyện công!” Vì luyện công là trọng
tâm của chúng ta mà, luyện công là trọng tâm của Tiên Môn. Thế là lúc đấy để
không ngủ lại luyện công, nghĩ như thế mà luyện công. Lúc đấy luyện công mà thắng
được cơn lười thì lại thêm một phần Nhẫn, lại thêm một phần tốt rồi. Cứ như thế,
thế nào cũng lấy luyện công ra làm vấn đề, khi nào luyện công trở thành trọng
tâm, khi nào luyện công không vướng mắc nữa, khi nào có thể quyết chí luyện
công được. Mỗi lần như thế, bởi vì cứ luyện công một lớp thì lại có một lớp
khác không luyện công trở thành chướng ngại, càng lớp sau thì càng nặng. Cho
nên cứ luyện công, luyện công, làm sao lấy luyện công thắng được nhân gian, luyện
công thắng được thân thể, thắng được nỗi mệt nhọc, thắng được những ham muốn. Đấy
là có thể chiến thắng rồi. Mỗi lần như thế Công Pháp đều ghi nhận, Cảnh Giới đều
hoan hỉ. Nên muội nói là xưa kia muội vẫn thế.
Đảm bảo giờ Lục đạo, ý là
gì? Đấy là Thân. Muốn kháng cự được sức mạnh của Thân tại nhân gian, nhất định
phải luyện công. Không thể chuẩn bị ngồi dậy lơ mơ, dùng ý chí: “Ta phải tỉnh
táo.” Đấy không phải cách của Tiên Môn. Tiên Môn là luyện công, trọng tâm là
luyện công, tu Mệnh mà. Mọi người không biết những bí mật đằng sau chuyện luyện
công, một ngày luyện công độ số ổn nhất là 9 lần. Bởi vì mỗi lần luyện lại được
một thứ khác nhau, mỗi lần luyện lại biến đổi một thứ khác nhau trong mười hai
canh giờ đấy. Luyện công tốt nhất là 9 lần. Người mới luyện thì chỉ độ một hai
lần đã thấy hết sức rồi. Mọi người đi biết là một phần tư canh giờ, nếu nhân
lên 9 lần là mất mấy canh giờ, thà mọi người không học, không đọc cái gì nữa,
ngồi luyện công, còn được đánh giá cao hơn là ngồi đọc lơ mơ lơ mơ, làm linh
tinh, ngủ lơ mơ. Thà hai canh giờ đó không đọc mà ngồi luyện công, thế cũng tốt
hơn là đọc lơ mơ chẳng hiểu gì trong đầu. Trong lúc luyện công có thể lúc đấy Tinh
Khí Thần hợp nhất, quả nhiên tinh thần lên rất cao, trí tuệ thăng phát, xả công
rồi có thể cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, trí óc thông suốt, tu luyện cả Bát Nhã.
Người trong Tiên Môn lấy
luyện công làm trọng tâm. Luyện Công là mấu chốt. Luyện công là trọng tâm, muội
luôn luôn nhấn mạnh như thế. Luyện công thật tốt, có thể đọc được, luyện công
thật tốt, có thể hiểu được. Không luyện công tốt, không hiểu gì cả, càng đọc
càng không hiểu, càng đọc càng không thấu, đọc thì cũng hiểu, không biết gì cả.
Nhất định phải luyện công. Đó là muội thấy như vậy.”
Duy
Hựu mỉm cười: “Ta hiểu lẽ ấy rồi”.