Nguyệt Quang đả tọa theo thế đơn bàn với kết ấn kì lạ: hai mu bàn tay chạm vào nhau, đặt trước ngực, thay vì úp hai lòng bàn tay vào nhau.
Lòng bàn tay kết nối với lục phủ ngũ tạng, là chỗ tập trung của nhân khí. Có thể coi lòng bàn tay là Vô hình tạng của con người: không cấu thành như một nội tạng, nhưng lại bao hàm nguyên
lý vận động
của tất thảy. Vì thế, bàn tay con người nếu làm
những việc phụng sự Thần thánh, hỗ trợ tu luyện, thì đều được coi là "tận hiến cho môn pháp". Mọi việc dùng đến tay trong
thiên hạ, dù là vẽ, khâu vá, nấu ăn, xây dựng, tạc tượng, dâng lễ, bắt tay… đều có thể biểu hiện sự vận động của nhân khí, đều có thể từ đó xem xét người ta phụng sự Thần thánh hay không và có một đời sống ra sao. Bàn tay đó cầm bút vào
kí kết với tà ác, hay đặt ra những điều ủng hộ tà ác, thì thân người thuộc về tà ác. Bàn tay đó viết, nắm giữ, tạo dựng cho pháp môn, Thần thánh, thì
thân người đó hưởng công đức vô lượng. Bàn tay đó làm
ra vạn thứ nhân gian để duy trì đời sống nhân loại, được coi là đáp ứng những
chuẩn mực tối thiểu của Chân Thiện
ở nhân gian. Bàn tay đó không đánh trả những kẻ công kích tàn phá mình, được coi là đắc được đức, công, tâm tính… Do đó, thường thì hai lòng bàn tay trong nhà Phật khép vào nhau, trước tâm, là ấn tượng trưng cho sự phụng
hiến Tâm của mình cho pháp môn, điều Thiện.
Lại kể, Từ thức ngồi đối
diện, cách Nguyệt Quang tầm 3 trượng. Nguyệt Quang lúc
này ngồi trong trong Long nguyên động, trên mọi bức vách động đều khắc hình rồng, đếm ra có đúng một vạn con rồng gồm đủ màu sắc, to nhỏ khác
nhau. Khoang động rất rộng, dù là
khoang động thiên nhiên nhưng giống như một nửa trái cầu, với một lối dẫn vào duy nhất. Nguyệt Quang ngồi giữa tâm của động, nhìn lên có hình hai con rồng xoáy quanh một khối đá tròn trắng muốt, quanh khối đá ấy tỏa ra một khối bạch quang lạnh lẽo nhưng đôi khi hừng hực. Từ khi Nguyệt Quang ngồi đả tọa ở đó, khối bạch khí bạch quang này không ngừng hư hỗn giăng ra. Từ Thức cất
tiếng: "Hài tử, ấn mà ngươi đang giữ trước tâm, được gọi là Bát Nhã Long ấn. Hai mu bàn tay tượng trưng cho
trí huệ cao nhất và trí huệ nhỏ nhất, gắn kết với nhau là trên dưới đồng nhất, lại quay lòng bàn tay ra ngoài, trong tu luyện của chúng ta là phóng xuất phàm
thân, dùng Bát Nhã cường lực mà
thanh trừ, cải hóa tim, phổi, tâm. Ngay sau đây ta sẽ
đưa ngươi vào Bát Nhã cảnh giới, nơi mọi trí tuệ đều có thể lên tiếng. Nếu ngươi vượt qua được sẽ viên thành Thần mạch công là lớp bí pháp thứ nhất của Bồ Tát Hiện Thế công. Chẳng may thất bại thì, này hài tử, ngươi sẽ vong thân kiệt mạng, tứ tán bất trí, bị huyết mạch
khống chế lục phủ ngũ tạng lẫn thân hình, có thể bị trăm
chủng ma ác xâm chiếm. Muốn vượt quan này, hãy nhớ không động tay, không khởi khẩu.
Ngươi nếu hối hận có thể đứng lên rời khỏi đây".
Nguyệt Quang mở mắt, nhìn sư thúc, đoạn mỉm cười, rồi nhắm mắt lại.
Chính
lúc đó từ người
Nguyệt Quang một trường đỏ sáng rực rỡ tỏa phát ra, cả thân thể bay lên cách mặt đất chừng một trượng. Từ Thức cất tiếng: "Bát Nhã Cảnh
giới, Đoạn mộng diệt tình, Trí huệ sinh sinh, Thần thông đại hiển", rồi hai bàn tay chuyển động theo hình thái cực, phút chốc phóng xuất hai luồng khí trắng
lạnh, cuồn cuộn như lốc xoáy, bao lấy Nguyệt Quang. Thân thể Nguyệt Quang và
khối đỏ vụt
biến mất. Lại kể Nguyệt Quang bỗng mở bừng mắt, thấy mình
đang trong một không gian rỗng không, vậy mà thấp thoáng thấy trời mây gió núi, mặt
trời mặt trăng đều cùng hiện, nhưng lại trống rỗng bao la khó tả.
Đây chính là Bát Nhã cảnh giới, Đang còn lạ lẫm, chợt thấy một dị tượng thật khó tin: trước mặt chàng là hai người
nữa giống hệt chàng, một người đỏ ối nhung nhúc máu, một
người trắng sáng lấp lánh nửa tỏ nửa ẩn. Nguyệt Quang
ngộ tính cao, trong phút chốc đã hiểu rằng người màu đỏ đó là Phàm huyết, người màu trắng kia là Thần mạch. Một niệm phân biệt được tốt xấu, chia tách được
thần và phàm đó chính là mấu chốt
của Bát Nhã cảnh giới trong Nguyệt
Quang. Sở dĩ nói như vậy, là vì Bát Nhã cảnh giới là do một niệm của người ta mà định hình. Người nào tu luyện gần xuất thế gian pháp, đều có thể du nhập vào không gian này. Ban đầu nó trống rỗng, trắng không,
về sau tùy tâm tính của người ta mà động một niệm lại
hóa hình hiện tướng. Trong Vô niệm cảnh giới này, nếu đủ Bát Nhã, có thể xuyên phá thời không mà tiến hành nhiều chuyện. Nhưng Nguyệt
Quang lúc này chưa hiểu được cũng chưa làm như
vậy được. Cách thức của Từ Thức, đưa
Nguyệt Quang vào Vô niệm cảnh giới này, cũng chính là khai mở đường dẫn Nguyệt Quang
tới Vô niệm cảnh giới, đây là một hình thức mật truyền thần thông. Hình thức này
chính là hình thức liên đới Mệnh, cũng sẽ liên quan tới toàn bộ hình thức truyền thừa môn phái về sau.
Lại kể, Nguyệt Quang nhìn về
phía Phàm Huyết, phóng xuất một niệm rằng: "Ngươi có thể tan đi
chưa". Phàm huyết mỉm cười, nụ cười thê lương nhưng thân thiết vô cùng, đoạn nói:
"Nguyệt Quang sao Nguyệt Quang sao? Cha mẹ ngươi gọi ngươi là Bất Tranh, từ
nhỏ nuôi dưỡng thương yêu ngươi, lớn lên
lo lắng chăm sóc cho ngươi. Nay
cha mẹ ngươi bặt vô âm tín, ngươi chẳng
lo chẳng nghĩ, đó là Đạo của ngươi đó chăng? Long Quy từ bé chở ngươi đi vạn dặm, lớn lên nghe ngươi tâm tình khổ đau, lúc ngươi đổ vỡ vì tình, lúc ngươi vững mạnh vì Đạo, là Long quy luôn
răn dạy ngươi. Vậy mà nay Long Quy thất
mệnh, ngươi chẳng nhớ chẳng nghĩ, ân nghĩa của ngươi bạc bẽo thế sao? Động Quy
Huyệt bị tàn phá, tất thảy gia nhân táng mạng, ngươi
không báo thù cho họ sao? Ta là
máu cha mẹ ngươi ban cho ngươi, là
dưỡng huyết được dưỡng thụ mà thành, là dòng tộc sống trong ngươi hi vọng vào ngươi,
ngươi nói một lời tan đi là tan đi
sao? Ngươi có còn là ngươi không vậy, hay nghe lời đức cao vọng trọng của ai mà đã hóa thành ai? Thật đáng thất vọng, thật đáng
khổ đau". Nguyệt Quang nghe mấy lời ấy, không hiểu sao tim đau thắt lại,
nhớ cảnh êm ấm từ bé, bao buồn vui giận hờn, yêu Tiên nữ mà bị mẹ cha phạt, mọi người đều hết sức thương yêu
chàng, cuộc sống đích thực bồng lai tiên cảnh, vui
hưởng an nhàn không sao kể hết. Chẳng cần tu gì Đạo nào, có linh thú
kề bên, thật êm ấm hết sức. Chàng
nghĩ lại hơn một tháng qua, tao ngộ đến giật mình, mà chẳng lúc nào yên. Khi nào cũng bị mắng trách, lòng tổn thương nhiều mà không ai
hiểu, hễ nổi lên một tâm là cảm giác áy náy bị khinh thường.
Thật khó trách chàng. Thiên sinh
ra da tóc dáng người khuôn vóc mặt mày. Địa sinh ra thịt,
mỡ mà sinh ra huyết dịch. Nhân khí từ Thiên Hình Địa Huyết mà sinh ra Nhân tạng.
Lại nói, kẻ bị xúc phạm về vẻ ngoài, bị cự tuyệt ánh mắt lời nói thân thể thì sinh ra
Hận. Kẻ bị người khác làm huyết mạch đảo điên dịch ứ huyết tắc thì sinh ra Oán. Kẻ bị tác động vào lục phủ ngũ tạng thì sinh ra Thù. Nay phần huyết thuộc về địa khí trong người Nguyệt Quang kia làm dẫn động đủ mọi Oán thán với Sư môn, lại khởi dẫn mong được an
nhàn thảnh thơi yên bình của địa tính-âm chất trong cơ thể. Làm sao Nguyệt Quang không động lòng cho được. Con người ta chẳng phải máu thịt
sao. Phần Oán đó, cộng với mong
muốn được vô tư an nhàn kia cùng lúc tạo thành một thái cực, khiến thân của Nguyệt
Quang bắt đầu yếu đi. Đúng khi ấy Thần mạch cất giọng, nghe lạnh
lẽo vô tình: "Ngươi đắc được từ Đạo điều lớn lao thì chóng quên, mà chút chịu đựng nhỏ nhoi thì nhớ kĩ. Nhớ cái bất bình, quên điều viên đắc, ngươi xứng đáng với gì đây? Ngươi mong chờ
gia đình vì ơn nghĩa hay vì vị kỉ
tư tâm? Cách ngươi mong cầu tình thân mà rũ bỏ Đạo lớn có gì khác đây? Ngươi hễ mê mờ thì quên lúc mình lý trí, hễ nổi chấp trước thì quên đi những lời tôn sư dạy bảo. Mở
miệng thì nói biết ơn, động tâm thì sẵn làm điều bất nghĩa. Tôn sư bỏ qua sự bất kính của ngươi thì ngươi
sẵn sàng bất
kính phải không? Kẻ vì nhục huyết tất quên đi địa tâm thiên đạo. Phàm huyết trước mặt ngươi là tình thân, oán niệm tụ thành. Ngươi còn chưa ngộ sao?". Nguyệt
Quang nghe mấy lời ấy lại cũng có chút tỉnh táo lại, nhưng không hiểu sao lúc
này cũng có thêm phản kháng, dường như khó chịu với những
lời chân chính vô cùng. "Đạo
bất hiếu bất nghĩa chăng? Đạo bất
nhân bội bạc chăng? Mà ta không nên nghĩ thế này, ta thực biết ta nghĩ
như vậy là do oán niệm tình thân an nhàn sĩ diện
mà tựu thành
niệm đó. Ta không từ bỏ được những điều đó, lại đem nó ra liễu giải lời
của tôn sư mà ngụy tạo Đạo, thật đáng xấu hổ".
Đang
nghĩ đến đó, chợt thấy Phàm Huyết hóa hình thành cảnh cha mẹ Nguyệt Quang, đang khổ sở trốn tránh,
đói khát thương tích, lại thấy cha Nguyệt Quang nói rằng: "Thân này
chết đã sao, chỉ lo Bất Tranh con ta ngộ nạn". Lại thấy mẹ Nguyệt Quang khóc mà rằng: "Nếu biết được con mình bình yên,
thì thiếp sẵn sàng đặt mạng này xuống đội ơn trời đất". Nói rồi hai vợ chồng ôm
nhau nước mắt lăn dài, khiến Nguyệt Quang cũng nhỏ
lệ thương tâm không kể xiết. Miệng
Nguyệt Quang chỉ chực thốt hai tiếng phụ mẫu, mà nhớ lời dặn của Từ Thức không được động thân mở miệng, nên đứng trân trân nhìn phụ mẫu
nức nở, đau lòng không tả nổi. Lại
kể, Phàm Huyết xóa tan cảnh đó, lại nhìn Nguyệt Quang thở dài: "Kẻ không có
Tình thì làm sao có Nghĩa. Tình là tính của Nhân, Nghĩa là lẽ của Địa. Ngươi bỏ Nhân bỏ Địa thì theo được với Thiên nào Đạo nào? Ngươi chẳng phải tu
luyện có thể cải hóa bản thể sao? Vậy nói
từ bỏ cả ta thì làm sao ngươi viên
đắc được gì thật sự? Pháp tu của ngươi đấy sao, ngươi hiến thân cho nó đấy sao?". Điều này lại khiến Nguyệt Quang thấy chấn động dữ dội: "Cha mẹ ta dạy ta tu mệnh có thể thay da đổi thịt, có thể cải hóa dịch huyết. Sao ta lại phải từ bỏ nhục huyết
của mình?". Lại nghe Phàm Huyết nói: "Nay
ngươi muốn từ bỏ cha mẹ, chối bỏ huyết tộc tình thân, hãy nói với ta một lời rằng ngươi khinh bỉ tất cả sự ấy. Nhược bằng còn một chút nhân tính, hãy gọi
một tiếng phụ mẫu, ta có thể liên thông mà mách bảo với phụ mẫu ngươi". Nguyệt Quang lại rúng động nghĩ thầm: "Quả là có lý ấy.
Ta nên gọi cha mẹ ta một câu mà không được sao?". Môi vừa định mấp máy, Thần Mạch đã lên tiếng, từng chữ nghe như băng tuyết: "Thất trí. Muốn hiểu được Lý tất phải từ chỗ của Đạo. Lẫn vào mê muội mà quên đi Thần mệnh.
Ngươi muốn cha mẹ ngươi thành tội đồ phá hoại ngươi sao? Thật là bất trí".
Trí
có thể thay được tâm tình sao? Trí có thể
diễn hóa ra tâm chăng? Chính là trong sát na này, một niệm của Nguyệt Quang có thể duy hóa hết thảy định mệnh của chàng. Vì
sự tu luyện ở cao tầng, trong lúc
quá quan, là ở một niệm nhất thành
nhất hoại đó. Ai bảo Trí không sinh ra Nghĩa, ai bảo từ bỏ Phàm huyết là bất nhân? Thế mà lúc này Nguyệt Quang
không thể nghĩ được gì khác. Không
thể nghĩ gì nhưng có thể viên thành Trí Huệ, chính là chỗ đặc biệt khi quá quan này: viên thành Bát Nhã,
duy hóa Đạo tâm. Đây chính là nội hàm của Mệnh trong Thần mạch công cũng là đặc tính của Thần Mạch công, là biểu hiện của Mệnh sinh ra Tính, tu Tính vì Mệnh ở tầng này.
Con
người nặng tâm cảm như Nguyệt Quang làm nổi đấy chăng?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.